03 October 2017

HOA CÚC VÀ NHỮNG BƯỚC ĐI HẠNH PHÚC - Đặng Thơ Thơ

1.
Sơn bắt đầu công việc sớm hơn thường lệ vào sáng mùng một tết. Lúc anh ra khỏi nhà thì Ly vẫn còn ngủ. Anh nói bà Guadalupe cứ để cô ngủ và anh sẽ đưa thằng bé đến trường. Dù tối hôm trước anh đi dạ tiệc khuya và uống nhiều rượu, sau đó anh còn ghé bệnh viện thăm một bệnh nhân vừa tự tử và đến hơn ba giờ sáng mới về nhà, anh vẫn nhất quyết phải có mặt ở phòng mạch đúng tám giờ rưỡi. Không hẳn vì anh là một bác sĩ tận tâm. Người ngoài có thể tưởng là anh tận tâm, nhưng Sơn lại không nghĩ vậy. Anh cho rằng chuyện anh làm việc siêng năng chỉ là vì anh không còn lựa chọn nào khác.

Thả thằng bé ở cổng trường lúc 8 giờ 10 phút, mở cửa phòng mạch lúc 8 giờ 20 phút, anh hài lòng với những tính toán chính xác của mình. Những trù liệu của anh đang ăn khớp với bước đi của thời gian. Không hấp tấp và không trễ nãi, tất cả xảy ra kịp thời như nốt nhạc rơi đúng vào nhịp đang chờ sẵn. Tất cả những dụng cụ đo đếm thời gian đều khe khắt và tàn nhẫn, đòi hỏi phải tính toán chặt chẽ để có thể điều khiển nó. Như tiếng đàn điều khiển cái máy gõ nhịp metronome. Anh bước vào phòng mạch với ý nghĩ mình đang tác động lên thời gian, vì anh mở cửa nên đồng hồ mới nhảy. Khi cửa đóng lại thì đồng hồ trên tường sẽ chuyển sang con số 8:20 sáng.

Đứng chơ vơ giữa phòng, nghe âm vang tiếng cửa xập lại, anh giật mình nghĩ: mình vừa xông đất phòng mạch. Lúc mới bước vào, trước đó một giây, hoàn toàn anh không nghĩ đến khái niệm xông đất. Đó không phải mục đích của anh. Anh cũng không tin chuyện xông đất. Vậy mà bắt đầu từ đó đến hết ngày, cái ý tưởng xông đất  bám dính lấy anh. Nó len lỏi vào đầu anh thật kỳ cục. Như thể chuyện anh bước vào phòng làm việc xảy ra cùng nhịp với chuyện ý tưởng xông đất đi vào trong óc - và chúng hợp nhất lại cho anh thấy rằng “anh đang xông đất.” Khi suy nghĩ như vậy, Sơn cảm thấy chúng đang bẫy anh - tất cả không gian, thời gian, vô thức và ý thức của anh đang mưu toan bẫy anh. Chúng muốn bắt quả tang anh đang xông đất, và anh đuối lý, không chối cãi được.
Cuối cùng thì đúng là anh vừa làm chuyện đó, chuyện xông-đất.

2.
Không mở đèn, anh đi thẳng đến cửa sổ, kéo màn lên. Sương giá đang rịn nước bên ngoài cửa kính. Ở đây sương còn dày hơn bờ biển mình vừa đi qua. Sơn nghĩ. Nơi nào nhiều sương cũng gây cảm tưởng gần biển. Anh đứng lại bên cửa sổ vài phút, ngắm sương và để cảm giác lạnh lẽo thấm vào người. Tất cả những buổi sáng sương mù đều khó hiểu. Như thể có một âm mưu đằng sau lớp sương. Như thể trong màn sương ấy có người đang đứng đợi. Như thể sau mỗi gốc cây là một khuôn mặt lạ. Và tất cả đều mang mặt nạ để không ai có thể nhận ra.
Phòng đầy khí lạnh. Dù vậy theo thói quen anh vẫn cởi áo khoác trước khi ngồi vào bàn làm việc. Anh nhấp vài ngụm cà phê nóng rót từ bình thủy. Cà phê luôn làm anh thấy dễ chịu, anh xoa tay khoan khoái trước khi bắt đầu công việc. Vị cà phê đắng, ngọt và béo. Nhưng mùi thì không. Anh ngẫm nghĩ: cà phê sao không có mùi cà phê gì cả. Cà phê này do chính bà Guadalupe pha theo lối Pháp sáng nay, bao giờ cũng đậm đặc và thơm lừng kia mà? Anh thử một ngụm nữa, vẫn thế.
Trong bao nhiêu năm qua, ngày nào anh cũng vừa uống vừa ngửi mùi cà phê. Thậm chí anh còn thấy chuyện ngửi thú vị hơn chuyện uống. Mùi cà phê ấy anh đã coi như một sự thật không thay đổi, hoặc giả còn chắc chắn hơn sự thật - vậy mà bây giờ biến mất. Trong lúc nghi ngờ khả năng ngửi của mình, anh kiểm điểm lại những thứ vừa làm, và nhớ mình đã uống thuốc dị ứng trước khi rời nhà. Khi thấy trời đầy sương anh còn cẩn thận bơm thuốc vào mỗi bên mũi hai lần để phòng ngừa. Để trắc nghiệm, anh hít một hơi dài. Một luồng hơi thông suốt từ cánh mũi chạy lên trán, rồi tỏa xuống hai bên xoang. Anh thở ra nhẹ nhõm: không có vấn đề gì cả!
Anh dí mặt thật sát ly cà phê, hít vào thật sâu như cách người ta xông lá. Khói bốc lên làm mờ mắt kiếng. Anh hít vài hơi liên tiếp. Rồi anh ngửi thấy.
Nhưng không phải mùi cà phê.
Một thứ mùi khác đang xông lên trong phòng.

3.
Cái mùi ấy xộc vào mũi anh một hương vị nồng nồng tanh tanh. Mùi đất!
Một mùi đất mềm, và ẩm, đầy hơi nước, và thoáng lo ngại.
Khi nhận ra mùi đất ấy, tim anh nhói lại vì sợ hãi.

Đó là mùi đất mới xới ngoài đồng. Đất ấy là của một ngày mưa, bốc lên từ một huyệt mộ mới đào. Một mùi đất anh đã ngửi từ một đám tang ngày bé. Mộ của ai, đám tang ai, ai là người chết ngày hôm đó, ai đã nằm xuống đó... thì anh không nhớ, thậm chí không biết vì lúc đó hãy còn quá nhỏ. Hơn bốn mươi năm rồi. Vậy mà bây giờ nó trở về - xông lên đậm và nồng quanh anh. Như thể bao nhiêu năm qua nó không hề phai lạt đi - dù nó không hề chường mặt ra một lần nào cả, cho đến hôm nay.
Ký ức về mùi của con người gắn liền với một sự kiện trong đời. Con người không có khả năng nhớ sự kiện bằng nhớ mùi hương. Một con người bình thường có thể “nhớ” ba mươi ngàn thứ mùi nhưng chưa chắc nhớ nổi ba mươi ngàn dữ kiện. Một khoa học gia đoạt giải Nobel hóa học đã nói vậy. Sơn tự hỏi, vậy thì cái gì là sự kiện của mình, mùi đất hay người chết? Hay cả hai?  Có thể lần đầu tiên chứng kiến cảnh hạ huyệt, lần đầu tiên ngửi mùi đất bốc lên; và ý thức một đứa bé lập tức kết hợp hai chuyện đó với nhau thành một sự thật: mùi đất gắn liền với tang tóc.
Mùi đất đi với người chết.

4.
Một kỷ niệm - tưởng là không hề tồn tại - vừa quay lại, chỉ vì một thứ mùi bất chợt. Mà cái mùi ấy ở đâu ra? -Chẳng ở đâu ra cả. Vì trong phòng này làm gì có đất? Sơn bàng hoàng: Thì ra anh không ngửi bằng mũi. Anh đang ngửi bằng óc.
Óc anh đang ngửi một thứ mùi quá khứ.
Nhưng tại sao một buổi sáng đầu năm lại đi mất thời giờ với những liên tưởng kỳ quặc này? Sơn tự hỏi. Chỉ vì cái ý tưởng xông đất làm mình ngửi thấy mùi đất, và mùi đất làm mình nghĩ tới người chết? Hay người chết làm mình nghĩ tới mùi đất? Có thể cái chết vẫn lảng vảng trong óc anh từ suốt đêm qua. Điều này không có gì lạ. Thật sự anh biết mình bị cái chết thu hút đến nỗi vì thế mà quyết định trở thành bác sĩ. Đã có lúc anh coi đó là điều kiện cần để hành nghề và để yêu nghề. Một bác sĩ nếu thờ ơ với cái chết sẽ không thể nào tận tâm được.
Anh nghĩ tới cô gái vừa chết. Anh vẫn không thể tin rằng với cô ta thì chết là hết. Cái chết ấy làm anh buồn bã hơn anh tưởng. Cái chết ấy không chỉ chứng minh sự thua cuộc của bác sĩ và chiến thắng của bệnh tật. Cái chết ấy chứng tỏ sự tuyệt vọng đã thắng thế, cô ta không còn tin tưởng vào bất cứ điều gì nữa. Ý nghĩ đó làm anh đau đớn. Sơn tha thiết muốn biết tâm trạng cô lúc đó: Điều gì đã xảy ra trong đầu cô? -Lúc gần kề cái chết trong một thân xác còn sống, cô đã tuyệt vọng vì không thể nào vui sướng - hay cô vui sướng vì sẽ không còn tuyệt vọng? Cô gái ấy đã lao vào hư không trong cách-thế nào? -Cách lạnh lùng của một người tự tay bóp nghẹt hơi thở mình, hay cách buông thả của một thân xác mỏi mệt đang cần ngủ? -Cách ta quăng một thứ phế thải vào thùng rác cho nhẹ người, hay cách một kẻ bị truy lùng ráo riết phải nhảy lầu trốn thoát? Bao nhiêu khả năng có thể xảy ra mà anh muốn biết. Toàn là những câu hỏi không thể biết, vì nó đến sau kiến thức, sau cái chết. Nhưng vì là bác sĩ, anh phải biết những điều không thể biết. Đó là lý do mà anh tồn tại và làm việc.

5.
Bao nhiêu điều sẽ còn tiếp tục xảy ra sau cái chết nhất định của một con người nhất định. Vì vậy tin tưởng rằng chết là hết chỉ là một tin tưởng hão, để cốt đánh lừa chính mình. Thật sự họ không chết đối với anh. Nếu họ ra đi vì một bệnh tật thuộc phạm vi điều trị của anh, họ vẫn còn sống trong tâm trí anh. Họ vẫn đầy quyền lực với anh, họ vẫn bắt anh phải tiếp tục suy nghĩ về họ. Hơn thế nữa, họ còn buộc anh phải viết sách về họ.
Trong một lúc bực bội anh đã nghĩ vậy.
Anh càng bực bội hơn khi nghĩ tới cuốn sách anh đang viết. Hội Chứng Tuyệt Vọng và Khuynh Hướng Tự Tử, đầu đề cuốn sách là như vậy. Cô gái mới tự tử hôm qua là trường hợp anh cần nhắc tới. Trước đó anh không có ý định viết về cô, nhưng bây giờ thì anh không còn lựa chọn nào khác. Vốn không phải người tin dị đoan, vậy mà anh bắt đầu nghĩ: chết vào ngày đầu năm là chuyện chẳng lành, ít nhất là nó báo trước một năm đầy bất ngờ, công việc dồn dập, và cuốn sách ấy sẽ còn lâu mới xong.
Khi mới khởi viết anh không ngờ công việc sẽ kéo mình đi xa như thế. Thời hạn hai năm đã qua từ lâu. Sau đó anh gia hạn thành bốn năm. Bây giờ đã gần hết năm thứ năm của cuốn sách. Và anh bắt đầu sợ nó sẽ theo mình, suốt đời.

6.
Số người tự tử đã gia tăng bất thường trong vòng một thập niên qua.
Khối lượng thống kê và nghiên cứu dồn dập khiến cuốn sách của anh cứ kéo dài ngoài ý muốn. Khi anh mới khởi viết số người chết không nhiều như vậy. Đáng lẽ anh phải viết xong từ hai năm nay. Nhưng trước khi anh kịp viết chương kết thì một sự kiện mới lại xuất hiện, một vấn đề mới lại phát sinh, những cái chết lại xảy ra vô phương cứu chữa. Đôi lúc anh có cảm tưởng chuyện viết sách đã ảnh hưởng đến con số của hiện thực, hoặc hiện thực tìm cách chứng minh cho lý thuyết, hoặc nghiên cứu về cái chết sẽ thúc đẩy cái chết đến nhiều hơn. Không thể nào kết thúc cuốn sách được, vì không thể ngăn cản cái chết được.

Anh ghi chú vào sổ tay:
Thêm một nạn nhân nữa là đủ 100,000 người tự tử vì tuyệt vọng. Tức là số lượng tăng gấp đôi trong vòng ba năm qua. Hay là tăng gấp ba từ khi mình bắt đầu viết sách.
Phía dược khoa có trách nhiệm một phần, có thể quy lỗi cho họ được, nếu muốn. Trong bản tin y học mới nhất, người ta đã xác nhận đa số thuốc trị bệnh trầm cảm có thể làm gia tăng ý muốn tự tử. Phần lớn các bệnh nhân đều dùng những thuốc này.                                                                                                                                                            
Ngẫm nghĩ một chút, anh viết tiếp: Người tự tử là Nguyễn Như Mân, 27 tuổi, trong vòng 10 năm đã dùng những thứ thuốc sau: Anafranil – Elavil – Ludiomil (1993 – 1997),  Celexa – Cymbalta – Pexeva (1997 – 1999), Marplan – Sarafem –Zyban (1999 – 2002)
Anh ngừng tay, nhìn lên: những hộp thuốc đang đứng xếp hàng trên bàn làm việc. Đây là đợt thuốc mới nhất, theo đúng luật ban hành ngày 22-10-2004 về dược phẩm chống trầm cảm. Bên ngoài các bao thuốc đều có lời cảnh cáo của FDA (The Food and Drug Administration) in trong khung đen đậm: 
WARNING:
...increase the risk of suicidal thinking and behavior
in adolescents with major depressive disorder...

Anh không ưa cái khung đen này. Nó là sự đe dọa. Nó gợi nhớ những giải băng tang. Nó mở ra những ý tưởng u ám. Và thay vì ngăn ngừa, nó trở thành lời mời gọi người ta tự tử.
Vậy là cùng một loại thuốc mà có hai công dụng trái ngược nhau: uống để tự tử, và uống để đừng tự tử. Sơn viết tiếp: Vậy thì uống thuốc hay không uống thuốc? -Phía bác sĩ tâm thần cho rằng cứ nên uống thuốc. Vì nếu kết cục tự tử là điều không thể tránh khỏi, thì việc uống thuốc làm người ta tự tử trong tinh thần dễ chịu. Ngược lại, trường hợp không uống thuốc, bệnh trầm cảm sẽ gia tăng khốc liệt, cũng dẫn đến tự tử, nhưng sẽ là tự tử trong tuyệt vọng.
Vậy Mân đã tự tử vì uống thuốc hay vì không uống thuốc? Nếu cô đã uống thuốc theo đúng toa bác sĩ để ngăn ngừa, nhưng rồi vẫn tự tử, thì đó là trách nhiệm của anh (nhưng cô đã quá tuổi vị thành niên từ lâu, và lời cảnh cáo trên chẳng ăn nhập gì đến cô nữa). Còn nếu cô không chịu uống thuốc anh cho, và vì thế cô tự tử, thì đó là lựa chọn của cô. Khám nghiệm tử thi không giải đáp được câu hỏi này, vì trong máu cô chỉ toàn là thuốc ngủ.

7.
Sơn làm việc đến mười rưỡi sáng thì cô Hạnh đến.
Hôm qua Hạnh đã dặn là sẽ đến trễ hơn ngày thường. Mùng một tết có nhiều nghi thức phải tuân theo cẩn thận, nhất là vì năm nay cô gặp sao hạn. Cô nói sẽ xuất hành vào lúc chín giờ sáng, giờ tốt nhất trong ngày. Cô sẽ đi lễ chùa gần nhà. Sau đó cô phải đi vòng về phía biển – ngược hướng phòng mạch - cho đúng lời dặn xuất hành về hướng đông nam. Cô còn phải hái một cành hoa tươi, đem về nhà cắm ngay vào lọ. Xong xuôi cô mới được quyền đến đây. Còn ngược lại, nếu cô từ nhà đi thẳng đến phòng mạch thì trong năm cô sẽ gặp xui xẻo, tai nạn, có thể chết được vì phòng mạch ở hướng tây bắc - tử địa và kỵ tuổi cô. Khoa tử vi vậy là đã đánh cắp một tiếng quý giá của một đời người, hay đây là một trao đổi có lợi: mất một tiếng để sống thêm một năm? Vì sinh mệnh của Hạnh, anh đã dặn cô hãy thư thả, hãy làm tất cả những gì cần làm, hãy làm với tất cả lòng tin tưởng thiêng liêng nhất, đừng quên rằng tỷ trọng của một buổi sáng đầu năm rất nặng, và tác động của nó quả là khôn lường. Thật ra cô đến trễ hơn nữa cũng được, hoặc không cần phải đi làm, nhưng vì anh hợp tuổi cô nên việc gặp anh vào đầu năm là có lợi, theo lời thầy bói.
Hạnh mặc áo lụa vàng tươi thêu lá trúc, khoác một tấm khăn voan mỏng dệt bằng tơ tằm, tóc chải cao cài trâm bạc, cô giống người mẫu áo dài trong chương trình video ca nhạc xuân. Cô đứng ở ngưỡng cửa phòng, cười rạng rỡ:
“Chào bác sĩ.”
“Chào cô Hạnh. Chúc mừng năm mới.”
Anh nói máy móc một câu chúc mà theo anh là rất vô nghĩa (vì người Việt ở Việt Nam hình như không chúc tụng như thế, cách chúc của họ văn hoa và tinh tế hơn nhiều, linh động tùy theo nghề nghiệp, địa vị và vai vế của người đối diện), rồi anh không biết nói gì nữa. Hạnh nhếch môi cười, cô luôn có một nụ cười nửa như chế diễu, nửa dịu dàng như thế:
“Năm mới chúc bác sĩ được sức khỏe dồi dào. Công việc thì may mắn, thành công, phát đạt, càng ngày càng nhiều bệnh nhân hơn...”
Sơn xua tay:
“Ấy chết, cô đừng nói thế, tôi sợ bệnh nhân lắm.”
Hạnh che miệng cười, cô nhận ra vẻ hoảng hốt trên mặt bác sĩ:
“Không sao. Bác sĩ đừng lo. Nhiều bệnh nhân nhưng tất cả đều khoẻ mạnh. Nhiều bệnh nhân nhưng bác sĩ chữa mát tay, họ sẽ khỏi hết ấy mà. À, một điều nữa, em chúc cuốn sách của bác sĩ sẽ xong trong năm nay nhé.”

8.
Bệnh nhân đến. Hạnh ra ngoài chuẩn bị hồ sơ. Sơn nhấm nháp chỗ cà phê còn lại, ngồi lặng yên suy nghĩ. Câu nói của Hạnh ban nãy vẫn lảng vảng trong đầu.
Càng ngày càng nhiều bệnh nhân hơn!
Đấy là một câu chúc ác.
Nó có nghĩa là: càng ngày càng nhiều người điên hơn, càng ngày càng nhiều người tuyệt vọng hơn, càng ngày càng nhiều người tự tử hơn. Trong câu chúc đó ẩn chứa nhiều tai họa. Hạnh thông minh phải biết điều đó. Đúng là một bác sĩ muốn phát đạt phải có nhiều bệnh nhân. Họ là tiền, là nguồn lợi bất hạnh trời mang đến cho anh. Nhưng anh không thể xây dựng sự nghiệp mình trên tuyệt vọng, bệnh hoạn và điên loạn được.
“Tôi sợ bệnh nhân lắm.”
Anh tự nói với mình.

9.
Hạnh mang vào phòng làm việc của anh một giỏ hoa cúc trắng, cô nói đầu năm bác sĩ có người tặng hoa là may mắn lắm. Cô lại nháy mắt với anh khi cài tấm thiệp vào giỏ cúc thanh nhã cắm theo kiểu Nhật Bản. Cúc trắng có mùi hắc làm anh nhảy mũi liên tục. Đi kèm với giỏ cúc là tấm thiệp xuân, phong bì làm theo kiểu thủ công, bằng một loại giấy kính trong, điểm vài cọng lá vẽ bằng màu nước như những chữ viết ngoằn ngoèo.
Thoạt tiên anh nghĩ là của gia đình một bệnh nhân. Nhưng thật ra một tặng vật chỉ có giá trị nghệ thuật kiểu này không có vẻ đến từ một thân chủ thông thường. Và thiệp cũng không đề tên người gửi, khiến trò tặng hoa này trở nên khác lạ. Nhưng anh lầm, quả thật chính là của một bệnh nhân, đọc vài dòng chữ thì anh rõ. Thiệp viết chi chít với những nét nghiêng ngả, kèm theo một CD nhạc, không phải CD gốc mà chỉ là bản thu lại.
Những lời lẽ trong thiệp cũng hết sức bất thường.
Trước tiên, người ấy cảm ơn anh, nhờ sự tận tâm của anh mà nay người ấy đã hoàn toàn khỏi bệnh, và chắc chắn sẽ không trở bệnh lại nữa. Người ấy có lẽ muốn diễn đạt và nhấn mạnh vào ý chính “không bao giờ, không bao giờ bệnh nữa” - anh bắt được dụng ý đó qua giọng điệu hơn là cách dùng chữ cụ thể. Vài đoạn sau, người ấy nhắc đến một bản nhạc của Mozart, nói là nhờ bản nhạc đó mà tìm ra hạnh phúc. Bây giờ người ấy thu vào CD, gửi kèm theo thiệp – trước là để gửi đến anh những giai điệu vào một sáng đầu xuân, như cách người ta tặng nhạc cho nhau trên đài phát thanh; sau là để anh dùng làm tư liệu cho cuốn sách.  Người ấy nhắc đến cách anh chữa trị, sự quan tâm đáng cảm động với những người điên loạn, đôi khi vượt quá cương vị của một bác sĩ. Người ấy căn dặn: “bác sĩ hãy vừa nghe nhạc vừa đọc tiếp những gì tôi viết, bởi vì tôi không đủ chữ để diễn tả cảm giác sung sướng tột độ của mình đâu...”
Kỳ quặc. Lập dị. Điên. Sơn nghĩ. Nhưng anh vốn thích những gì bất thường, và bị lôi cuốn theo lời dặn trong thiệp. Người gửi quà này biết rất rõ nhược điểm của anh nên hẳn đã cố tình làm mọi sự trở nên cầu kỳ để thu hút chú ý. Anh cho CD vào máy, nhấp một ngụm cà phê, lắng nghe. Một giai điệu quen của Mozart, hòa tấu khúc viết cho đàn dương cầm, còn gọi là Elvira Madigan nhờ cuốn phim nổi tiếng của Widerberg.  Anh đọc tiếp.
Elvira đang yêu, nàng đang đau khổ trong tình yêu, vì đấy là tình yêu không lối thoát. Trong phim, bác sĩ còn nhớ không, khi nhạc trổi lên. Nàng lại bước đi, nhưng bây giờ là bước đi rất khác. Đấy là những bước đi của một người hạnh phúc.
Sơn biết cuốn phim, nhưng anh đã quên hầu hết những tình tiết và hình ảnh trong phim.  Qua miêu tả trong thư, anh cố hình dung ra một Elvira, tuyệt vọng và cuối cùng hết tuyệt vọng. La - là Lá - là Lá! Năm nốt nhạc đầu tiên của Elvira khi cô đi những bước lâng lâng không chạm đất. La - là Lá - là Lá! Có thể hình dung như thế này: Một tiếng la lên, một bước nhẹ, một bước cao, và con người trở thành nốt nhạc. Elvira đang đi thì bị một ý tưởng ùa đến, xâm chiếm. Đột nhiên như ánh chớp. Thình lình như sét đánh.
Người ấy viết “Đây là điệu nhạc của một người hạnh phúc cực độ. Một người hạnh phúc sẽ bước đi loạn như thế, vừa đi vừa nhảy nhót theo điệu nhạc, thực sự là điều khiển nhạc bằng bước đi của mình. Những bước đi không đều, những bước đi khi nhanh khi hụt, khi vấp té khi cao vút, với dáng vẻ kinh ngạc vì điều mình chợt vừa tìm thấy. Người ấy đã tìm ra một lối thoát ở cuối con đường. Một lối thoát mãi mãi...”
Hợp âm Fa trưởng ở đầu câu số 3, người ấy viết, như một niềm vui choáng ngất. Một kiểu choáng nắng, đến chóng mặt, đến xây xẩm, như trúng một luồng gió độc trên hè phố. Rồi ý tưởng ập tới, bất ngờ, khi những hợp âm ném giữa lối đi. Sơn ngẫm nghĩ: Giai điệu hoàn toàn lạc quan, đến độ ngây thơ, gần như mù quáng. Một niềm vui lớn bao giờ cũng có chút mù quáng. Một hoan lạc cực độ luôn luôn là điên dại, và vì thế mà ngây ngất. Giai điệu của một người say, say la ngà, say loạng choạng. Say nhưng không té ngã, nhưng vẫn thấy đường về. Hoặc giả tất cả các con đường đều là lối về. Tiếng dương cầm nện những gót giầy trên hè phố. Những nốt gõ trong vắt. Toàn thể bản nhạc là một niềm vui ngây dại. Không phải một niềm vui thông thái.
Anh huýt gió theo. Anh chờ đợi một niềm vui sẽ len lỏi vào người, như nốt nhạc mi giáng đang lẩn vào cung Fa trưởng. Nhưng kỳ lạ thay, anh chỉ thấy buồn ảm đạm. Càng nghe càng buồn, một nỗi buồn ẩn giấu rất kín đáo bên dưới niềm vui.
Bản nhạc là một nghịch lý. Nó thẩy ra niềm vui hào phóng, hóa ra chỉ là niềm vui bao trùm bề mặt, sau đó chỉ toàn buồn bã. Lắng nghe những hợp âm ẩn ở bè dưới thì sẽ thấy hạnh phúc ấy thật ra thê thảm lắm. Nó ném ra một lời khẳng định, mà cuối cùng chỉ làm người ta hoang mang nghi hoặc. Không thể nào lý giải được những phức điệu trong những bước đi của hoà âm, trong con người Elvira, trong tâm hồn người viết.
Người viết lá thư này là ai?
Không đề tên, không chữ ký. Một thư nặc danh, kèm theo hoa cúc trắng. Nét chữ khó đoán của đàn bà hay đàn ông, nhưng giọng văn và toàn bộ cách gửi hoa tặng thiệp hẳn là phụ nữ. Sơn không nghĩ trong đám bệnh nhân nam của anh lại có người chịu khó làm việc đó.
Tại sao người ấy có thể đoan chắc là không bao giờ bệnh lại nữa?
Những bệnh nhân của Sơn là những người không bao giờ khỏi bệnh. Công việc chính duy nhất của anh là ngăn họ đừng chết. Họ sống và được duy trì trong một thứ bệnh tật kinh niên. Họ chỉ hoàn toàn khỏi bệnh khi họ thoát khỏi cuộc sống. Sơn lạnh người. Anh đã hiểu ẩn ý của người viết thiệp. Người ấy đã chọn đường tắt ra khỏi cuộc đời, như Elvira, một lối thoát mãi mãi.
Người ấy là ai?
Anh nghĩ tới cô gái chết đúng vào đêm giao thừa hôm qua. Lúc đó họ đã rửa ruột. Rửa ruột mà như lọc rửa cả thân thể nên da mặt và da cổ tay trắng nuột, tương phản với màu tóc đen nhánh xõa sượi trên gối. Hình ảnh người chết nửa như đang tan rữa, nửa hãy còn tươi. Lúc chết có phần còn đẹp hơn lúc sống. Khuôn mặt tuy tiều tụy nhưng đã bắt đầu thanh thản. Đôi môi căng mọng như sắp bật máu đang từ từ chuyển sang hồng lợt. Đôi mắt thường mở to đầy vẻ hờn oán nay đã hoàn toàn khép chặt, đóng lại vĩnh viễn những tia nhìn đau đớn.
Anh nhìn tấm thiệp, của Mân chăng? Nếu vậy, anh đã chứng kiến cái chết trước khi nghe được lời trăn trối. Lời trăn trối đến muộn, là bây giờ cô sung sướng lắm, và cô cảm ơn anh. Tại sao lại cảm ơn chứ? Đáng lẽ cô oán trách anh mới phải, vì hơn mười năm chữa trị, đã bao lần anh ngăn cản cô với niềm hạnh phúc của cô: niềm hạnh phúc vĩnh cửu của cõi chết.

10.
Sáng hôm ấy Ly cũng nhận được một giỏ hoa cúc trắng, không kèm tên người gửi. Cô gặng hỏi bà Guadalupe và biết người đưa hoa là một nhân viên của hãng Conroy’s Flower thuộc thành phố Huntington Beach. Bà đoán là của một bệnh nhân vừa khỏi bệnh đem tặng, nhưng Ly không nghĩ vậy. Bệnh nhân của Sơn sẽ không bao giờ khỏi bệnh, họ sẽ theo anh suốt đời, trừ khi cuối cùng họ tự tử vì tuyệt vọng mà thôi. Ngoài ra, ai lại đem tặng hoa cúc trắng vào ngày đầu năm? Cô nghĩ bó hoa dành cho cô. Cô nghĩ bó hoa đến từ một cõi khác. Nó đến từ một giấc mơ, giấc mơ tối hôm qua, hay là những tối xa hơn nữa.

Đặng Thơ Thơ