Noi gương các Thánh Mark, Matthew, John và Luke ghi lại
cuộc đời Chúa Giêsu trên dương thế, tôi cũng ráng viết về một biến cố mà
tôi là một nhân chứng bất đắc dĩ, nay lén trở về tắm lại một lần
nữa trong “dòng sông ngày ấy”, cho dù đó là một đoạn sông đầy máu
và xác người.
Cũng Tết năm đó, Anh đầu tôi đang dạy học tại Qui
Nhơn, cũng lấy phép về Huế ăn Tết với gia đình, sau khi đón chị Dâu
tôi, đang bụng bầu gần 7 tháng, và bé Hạnh Linh, đứa cháu gái đầu
lòng, hai tuổi, từ Quảng Trị vào. Anh chị tôi kể lại, trong mấy
ngày trước Tết ngắn ngủi ở Quảng Trị, trong tình hình quân sự khá
bất ổn, Anh tôi cùng gia đình vợ đã bị một toán lính bất lương đột
nhập vào nhà, trong đêm vắng, mở chốt lựu đạn, uy hiếp, hành hung và
cướp sạch số tiền dự định mang vào Huế xài Tết, cộng thêm mấy cây
vàng. May là không có ai bị thương ngoại trừ vết trầy trụa trên trán
anh tôi, do bị tên lính dộng vào mặt, chỉ vì nhìn chằm chặp vào mặt
hắn.
Đêm Giao Thừa, ai ai cũng đều hăm hở chuẩn bị đón ông
bà về thăm và ăn Tết cùng con cháu trong mấy ngày Tết. Thành phố dù
lất phất mưa, xen chút gió lạnh, trông thật bình yên, êm ả. Không bình
yên sao được, khi “Hai Bên” đã thõa thuận tạm ngưng bắn 48 tiếng, để
người Dân có thể yên tâm ăn Tết? Các đơn vị quân đội, do đó, đã cho
phần lớn binh sĩ xả trại, về phép. Một số lớn người dân làm ăn,
công tác xa suốt năm, cũng về vui Xuân, đoàn tụ với gia đình. Mọi
người nao nức chờ đón giây phút linh thiêng mà không biết rằng cửa
địa ngục đang từ từ hé mở, máu lửa, tai ương và Thần Chết sắp đổ
ập xuống đầu những người dân hiền hòa, vô tội! Huế thơ, Huế mộng của
tôi sắp được chính thức “khai tử” kể từ đây!
Thật vậy, trái với sự mong đợi của mọi người, đúng
qua đêm Mồng Một, rạng ngày Mồng Hai Tết năm ấy, Cộng Quân đã tráo
trở xé bỏ hiệp ước ngưng bắn, ra lệnh tấn công, không chỉ riêng Huế,
mà trên hầu hết các đô thị lớn của Miền Nam Việt Nam.
Trở lại ngày đầu năm “Con Khỉ”. Ngày mồng một Tết
năm nay sao có vẻ xanh xao, mõi mệt như một cơn bệnh. Tuy thế, Tết vẫn
luôn là ngày lễ truyền thống lớn và đáng nhớ nhất trong năm. Sáng hôm
đó cũng vậy, cả nhà thức dậy sớm hơn mọi khi. Buổi ăn sáng nay, ngoài
cà phê sữa, đặc biệt hôm nay còn có bánh tét chiên, ăn kèm dưa món.
Sau bữa ăn, các anh chị em tôi, năm nay, chỉ còn lèo tèo ba người, cháu
Hạnh Linh, cùng hai người làm, tập trung lại để mừng tuổi Ba Mạ tôi.
Sau khi nhận lời chúc Tết của các con, Ba tôi luôn đại diện mạ tôi,
có vài lời “nhắn nhủ” đầu năm, sau đó là phần phát tiền lì xì.
Thời đó chưa có bao lì xì, thay vào đó là những tờ giấy bạc mới
cáu, mà Ba tôi đổi từ Ngân Hàng, còn thơm phưng phức.
Xong xuôi, cả nhà cùng đi bộ lên mừng tuổi “Ông” Bà
Ngoại. Đúng ra, Ông Ngoại tôi đã mất. Nhưng nhắc tới ngày Tết khi ông
còn sống là nói đến buổi gặp mặt bà con đông đủ nhất, thường tập
trung ở nhà Ông Ngoại. Ông tôi họ Ưng, Hoàng Phái thuộc dòng Minh
Mạng, vì “cao số” nên đến ba đời vợ, may mắn là không phải cùng lúc,
với khoảng 12 người con, trong đó, Mạ tôi thuộc dòng thứ hai. Ăn uống
no say xong, lại kéo nhau ra thăm khu mộ gia đình gần đó. Tết ở Huế
thời đó, đối với tôi là những kỷ niệm của đại gia đình, sống động,
êm đềm, và thật dể thương, trong một giai đoạn thanh bình của đất
nước. Nó khác nhiều so với cái Tết của nơi khác và hiển nhiên càng
khác xa với cái Tết của thời đại bây giờ, ở Việt Nam và nhất là ở
Hải Ngoại.
Tối mồng một. Trời mưa rả rích và khá lạnh. Sau một
ngày liên hoan vui vẻ với đại gia đình, tôi lên giường khá trễ, giữa
những tiếng pháo vẫn còn đì đẹt đâu đó. Đi ngủ mà lòng háo hức
chỉ vì nhớ tới cái hẹn với cô bạn gái, vào trưa mai, mồng Hai Tết.
Chợp mắt chưa bao lâu, khoảng 1, 2 giờ sáng, tiếng con Minot gầm gừ
mãi ngoài sân trước, đánh thức tôi dậy. Qua tấm vải mùng, mình còn
cuộn trong mền vì trời khá lạnh, tôi thấy Ba tôi cũng đã thức dậy,
trong bóng tối, đang hé nhìn qua khe cửa sổ. Một hồi sau, thấy tôi đã
thức giấc, với vẻ mặt khẩn trương, Ba tôi ra dấu bảo tôi yên lặng và
chỉ ra phía ngoài sân. Tôi xuống giường, rón rén bước lại gần và
lén nhìn ra. Dưới ánh đèn đường mờ nhạt xuyên qua tàng lá cây nhãn
trước nhà, cách tôi không quá mười thước, tôi nhìn thấy những bóng
đen tựa những bóng ma, đang lố nhố tìm vị trí dọc theo bức vách xi
măng đục lỗ, chia cách nhà tôi và dãy rạp cho thuê. Tôi không nhìn thấy
rõ mặt mày họ, nhưng thấy nhóm người này có võ trang súng đạn. Họ
ngồi đó im lìm, qua động tác, tôi đoán họ đang lặng lẽ móc thức ăn
từ bị rết đút vào miệng. Giờ này thì cả nhà tôi đã thức giấc. Ba
tôi thầm thì bảo tôi và anh tôi phải leo lên trốn trên trần nhà. Không
sẵn thang, chúng tôi phải leo theo cánh cửa ngăn giữa nhà trên với
phòng ăn cơm và khu nhà bếp, nhấc tấm ván ngăn của trần nhà, đu
người lên, sau đó đóng tấm nắp lại. Tạm yên! Không bao lâu sau, tiếng
súng bắt đầu vang vọng khắp thành phố. Riêng khu tôi, nhất là phía
bên kia sông, súng nổ rền, vì ngay bên kia cầu là Đồn Công Binh, còn
được gọi là Đồn Bá Công, rất lớn, nằm ôm trọn ba con đường: đường
Phan Đình Phùng, dọc bờ sông Phú Cam, đường Nguyễn Huệ và đường Cây
Muối. Đúng ra là bốn đường, nhưng mặt đường Nguyễn Trường Tộ, đồn bị
che khuất bởi dãy “Nhà Đức Cha”.
Đến 4 giờ sáng, lúc này thì điện đóm đã tắt ngủm,
giữa tiếng súng lớn nhỏ, có tiếng đập cửa dồn dập từ khu nhà bếp.
Không chậm trễ, Ba tôi mở cửa. Một nhóm bộ đội chừng ba, bốn người,
súng chĩa thẳng phía trước, thái độ khá căng. Không bước hẳn vào bên
trong, câu hỏi đầu tiên của họ: “Trong nhà có Mỹ Ngụy không?” Ba tôi
thật thà trã lời là không có. Sau đó, họ yêu cầu ba tôi “cho phép”
họ tháo gỡ các cánh cửa sổ gỗ để họ làm công sự chiến đấu. Mùa
Đông lạnh buốt mà tháo cửa thì chỉ có nước chết lạnh. Nhanh trí, Ba
tôi hướng dẫn họ đến đống gỗ cũ, thu góp được sau đợt xây nhà vừa
qua, nằm cách đó không xa. Họ đồng ý. Sau đó, Ba tôi may mắn được họ
cho phép trở vô nhà, thay vì bị trưng dụng làm dân công như vẫn thường
thấy. Trong suốt mấy giờ qua, trong nhà tôi mọi người đều đã thức
giấc, hồi hộp, chờ đợi diễn tiến, trong khi tiếng bom đạn ngày một
dồn dập.
Khoảng hơn 6 giờ sáng, tiếng nói là sáng, nhưng trời
còn tối thui vì mùa Đông, mà lại không có điện, lại có tiếng đập
cửa trở lại. Cửa lại được mở, và lần này, nhóm người thận trọng
bước vào, súng vẫn chĩa phía trước, và cũng vẫn câu hỏi trước,
bằng một giọng Bắc khá nặng: “Trong nhà có Mỹ Ngụy không?” Khác lần
trước, lần này họ yêu cầu được khám xét nhà. Mạ tôi, thay Ba tôi,
đốt cây đèn cầy, dẫn toán bộ đội vào nhà, đi từng phòng một, mở
tung các tủ theo yêu cầu của họ. Họ chỉ nhìn vào nhưng tuyệt đối
không lục lạo. Từ bên trên, chúng tôi nín thở, lắng nghe những diễn
tiến ở bên dưới. Thời gian trôi qua, nặng nề, căng thẳng, cho tới khi
khám xét xong, họ tuyên bố: “Chúng con về chỉ để giải phóng Thành
Phố, nhà ở, đường đi, không sao cả, ba mẹ yên tâm.” Sau đó họ rút
xuống khu nhà dưới, lúc đó đã được mở toang cửa. Nói chung lần tiếp
xúc đầu tiên với “Việt Cộng” có thể nói là khá” ấn tượng”! Cũng dễ
hiểu, hình ảnh, cung cách của nhóm người này thật khác xa với cái
hình ảnh, “răng đen mã tấu” mình vẫn cưu mang lâu nay. Cái đáng nói
nhất là trước đây, khi nghe nói đến Việt Cộng, ai cũng sợ hãi, vì
đó là một bóng ma, một đe dọa, một kẻ thù không hình tướng, luôn gắn
liền với giết chóc, ám sát, khủng bố để rồi hôm nay, cái bóng ma
ấy bỗng xuất hiện, nhưng lần này, với một hình thể chẳng khác gì
mình, cũng da vàng, mủi tẹt, cũng cùng một ngôn ngữ, cách xưng gọi.
Không có gì là ma quỷ, không có gì là ghê gớm, đe dọa, sắt máu như
mình đã nghĩ.
Trời tờ mờ sáng, tiếng súng lớn nhõ vẫn còn vang
vọng, nhưng không gần kề như trước, có lẽ Đồn Quân Cụ bên kia sông
chắc đã thất thủ. Thật ra, theo tôi, sự cầm cự, nếu có, chắc cũng
chẳng có gì ác liệt: Quân nhân phần lớn đã xả trại và đã về vui
hưởng Tết cùng gia đình, đồn bót gần như bỏ ngỏ trong mấy ngày Tết.
Sau nhiều giờ lẩn tránh trên trần nhà, trong tư thế không được thoải
mái, tôi và anh tôi, mặt mày khá bơ phờ vì mất ngủ và lo lắng, tìm
cách nhìn lén qua khe hở lỗ thông hơi, xem động tĩnh bên dưới sân, quanh
nhà. Dõi mắt nhìn phía bên kia bức tường ngăn, khoảng sân sau dãy nhà
cho thuê, hướng cửa sổ phòng Ba tôi nhìn ra. Tôi thấy một nhóm ba, bốn
tên bộ đội, đầu đội mũ “tai bèo”, chân mang dép râu, vai mang AK47, B40,
mặt mày non nớt, xanh xao, đang đứng cười nói với nhau, trong khi một
tên trong bọn, đang vạch quần ra tè vào bụi cây gần đó. Ủa, thì ra
Việt Cọng cũng biết cười, biết nói, biết tè nữa sao? Nỗi sợ hãi
trong tôi bỗng biến mất!
Tiếng máy bay “Bà Già” L19 quần lượn trên trời, đang
phát thanh nhiều lần lệnh thiết quân luật trong toàn thành phố. Tim
tôi chợt nhói: Thế là đi đong cái hẹn trưa nay với cô bạn gái của
tôi! Thế mà tôi cứ nghĩ, đây chắc chỉ là một cuộc tấn công chớp
nhoáng, chừng vài ba tiếng, rồi họ sẽ rút đi? Điệu này, không chừng
sẽ kéo dài vài ba ngày, hoặc cả tuần cũng nên?
6:30 giờ sáng, tiếng súng lại dồn dập trở lại, xen
lẩn giữa tiếng đạn giòn giã của súng nhỏ, tiếng đại bác từ xa câu
về, nghe mỗi lúc mỗi gần kề hơn. Lo lắng cho hai thằng con vẫn còn
vất vưởng trên trần nhà, Ba Mạ tôi, chị dâu tôi, quay quắt như gà mắc
đẻ, và vì không còn lựa chọn nào khác, cuối cùng Mạ tôi đành kiếm
tên chỉ huy của nhóm bộ đội để thú tội: “Tôi xin thú với mấy anh là
tôi có hai thằng con, một thằng thầy giáo, một thằng sinh viên. Bọn
nó lâu nay nghe tuyên truyền mấy anh dữ tợn lắm, nên hoảng sợ trốn
trên trần nhà. Nay chính mắt chúng tôi nhìn thấy các anh xử sự nhân
đạo, đàng hoàng, tử tế nên xin mấy anh thương tình bỏ qua và cho mấy
thằng con tôi được ra trình diện!” Thấy hai người đàn bà, một già,
một trẻ với cái bụng đi trước, đang mếu máo, thiếu điều quỳ mọp, van
xin, tên chỉ huy, chắc mát dạ vì câu nói của Mạ tôi, mau mắn lập lại
câu nói trước đây: “Ba Mẹ và chị cứ yên tâm kêu mấy cậu xuống. Chúng
con về đây là để giải phóng Thành Phố, nhà ở, đường đi. Không sao
đâu!” Lần này Ba tôi mang cái thang gỗ để sát vách, vì đã theo dõi và
nghe rõ câu chuyện, chúng tôi lẹ làng leo xuống. Lòng tôi lúc ấy thật
bình tĩnh, không chút sợ hãi. Tên chỉ huy nhìn chằm chặp vào chúng
tôi, yêu cầu chúng tôi cho xem giấy tờ tùy thân. Anh tôi trình giấy
Giáo Sư, riêng tôi, ngoài giấy chứng nhận Sinh Viên, còn kèm thêm giấy
hoãn dịch vì lý do học vấn. Đọc xong giấy tờ, tên chỉ huy có vẽ
thoải mái hơn và lại lập lại câu nói: “Các cậu yên tâm, chúng tôi về
chỉ để giải phóng thành phố, truy lùng bọn ác ôn, có nợ máu với
nhân dân, riêng người dân vô tội, quyết không hại một ai. Tuy nhiên, hiện
tại, hai cậu nên ở trong nhà, không được đi đâu, đến chiều này, hai cậu
chuẩn bị ít gạo và quần áo, lên Chùa Từ Đàm “học tập”!” Có lẽ tôi
là một trong những “Công dân Miền Nam” đầu tiên được hân hạnh nghe hai
tiếng “Học tập”, một từ hiền lành, quen thuộc, nhưng trong hoàn cảnh
hiện tại, nghe ra thấy ngờ ngợ khó hiểu. Mặc dù trong bụng không
hiểu rõ ý nghĩa, chúng tôi đều vui vẻ gật đầu đồng ý. Thật vậy,
không những bây giờ, mà nhất là bẩy năm sau, khi Miền Nam hoàn toàn rơi
vào tay CS, người dân miền Nam, hiền hòa dể tin đã phải trã một giá
thật đắt, có khi bằng cã sinh mạng, cho sự hiểu lầm từ ngữ quái ác
này!
Trời bắt đầu sáng tỏ, quang cảnh bên ngoài khá nhộn
nhịp với các toán quân qua lại, vũ khí trang bị nặng nhẹ đủ loại, từ
sân trước ra tới vườn sau. Khu vườn sau nhà tôi khá rộng, tiếp giáp
với khu đất của “Cậu Cẩn” (Ngô Đình Cẩn), chỉ cách một bờ rào dây
kẽm gai thấp ngang bụng. Khu nhà tôi ở, mặt hướng ra đường Nguyễn
Trường Tộ, riêng dãy nhà cho thuê, cùng phần hông vườn sau nhà tôi lại
hướng ra hướng đường Phan Châu Trinh, sát dọc bờ sông; hai khu tiếp
giáp vuông vức ngay đầu cầu Phú Cam. Riêng khu nhà Cậu Cẩn lại không
được nguyên vẹn, mà là hình chữ L ngược, một đầu hướng ra đường Phan
Chu Trinh, đầu kia, nơi có cổng chính ra vào, lại hướng ra đường
Nguyễn Trường Tộ, chỉ cách khuôn viên Nhà Thờ Phú Cam không quá vài
trăm mét. Vườn nhà tôi cũng khá um tùm, với đủ loại cây: dừa, mít,
cau, ổi, chuối, cam, chanh. Phía bên vườn ông Cậu, dọc hàng rào kẽm
gai, là những bụi tre, ngoài ra cũng chẳng thấy trồng trọt gì. Mỗi
lần thấy măng vừa kịp nhú lên là bọn tôi đã mau mắn “vượt biên” thu
hoạch. Không những sau ngày “Cách Mạng” năm 63, khi ông Cậu không còn,
mà ngay cả trong thời kỳ vàng son của dòng họ Ngô cũng thế. Măng tươi
mà kho với tôm và thịt heo ba chỉ, tuy món bình dân nhưng ngon đáo để.
Phải nói những toán quân chính quy BV rất kỷ luật,
không cướp bóc, hỗn độn, kiêu binh. Họ ăn mặc giản dị, áo quần màu
vàng cháy hoặc xanh lính, rộng thùng thình, cắt sửa qua loa, không
gọn ghẽ, gồ ghề, thẳng nếp theo cung cách lính tráng phe ta. Đầu đội
nón “tai bèo” hoặc để trần, cổ quấn khăn rằn, chân mang dép râu làm
bằng vỏ xe. Phần lớn, nét mặt còn rất trẻ, điểm chút quê mùa, mộc
mạc, tóc hớt “một mái”. Điều đặc biệt là không thấy họ mang dấu
hiệu binh chủng, cấp bậc, tên tuổi. Trong sân trước, bên cạnh những
nhánh cây gẫy đổ do súng đạn, tôi thấy một vài hố cá nhân được đào
dọc theo bức vách, ngụy trang. Nhìn phía bên kia cầu, phía dãy Nhà
Đức Cha, một vài bộ đội, trong đó có vài nữ du kích, với mái tóc
kẹp dài, đang hì hục chất lên xe một số đồ, mà tôi đoán có lẽ là
súng đạn, chuyển ra từ đồn Quân Cụ, qua ngã một khoảng trống hàng
rào phòng thủ bị san bằng.
Khoảng gần trưa, để tránh hư hại do bom đạn đang mỗi
lúc mỗi nổ dồn, tôi phụ ông anh tháo gỡ cái TV mà anh tôi đã mua
tặng gia đình không bao lâu trước Tết. TV được cẩn thận bỏ lại vào
thùng giấy và chất lên đầu tủ áo quần, trong phòng anh tôi. Ngoài
cái TV, một mặt hàng xa xỉ khác thời đó là cái tủ lạnh. Cũng không
bao lâu trước Tết, Ba tôi, lúc đó đang làm Tổng Thư Ký của Đại Học Y
Khoa Huế, cũng đã mua lại được một cái tủ lạnh còn rất mới, của Ô.
Bà BS. Krainick, một Giáo Sư Bác Sĩ người Đức, đang giảng dạy tại ĐH.
Y Khoa Huế và cũng là một người bạn khá thân của Ba tôi và gia đình.
Điều đau đớn là Ông Bà, cũng như một số đồng nghiệp khác của họ
như: Dr Alteköster, Dr Discher, Dr. Gunther Krainick cùng giảng dạy tại ĐH.
Y Khoa Huế đều đã bị Cộng quân bắt giữ và thảm sát trong biến cố
Tết Mậu Thân năm đó. Tôi còn nhớ, trước đó không lâu, có lần Ba tôi
kể lại chuyện Sinh viên Y Khoa Hoàng Phủ Ngọc Phan, bị đuổi khỏi
phòng thi vì đã xử dụng tài liệu sao đó, nhưng vụ việc về sau được
BS. Lê Khắc Quyến, Khoa Trưởng ĐHYK Huế, đề nghị bỏ qua, với lập
luận: “Thôi tha cho nó, xử dụng tài liệu như rứa thì coi như nó cũng
đã học rồi.” Tôi tự hỏi với tất cã sự dè dặt, không biết “ông
tướng” này, khi từ Bưng trở về, dịp Mậu Thân, có dính dáng gì đến
vụ tàn sát dã man các giáo sư ân nhân người Đức kể trên, do thù oán
cá nhân không?
Đường sá ngoài kia vẫn tiêu điều, hai cây nhãn và
mấy cây dừa xiêm, dừa lửa, nằm dọc bờ rào, tơi tả, bầm dập, sau một
đêm tiếng đạn thay tiếng pháo, mở đầu năm mới con Khỉ. Dưới bầu trời
xám lạnh, điểm chút mưa phùn, thỉnh thoảng, một vài nhóm người, già
có, trẻ có, chừng vài chục người, quần áo xốc xếch, mặt mày phờ
phạc, tay ôm, vai vác thường dẫn đầu bởi một người cầm cờ trắng,
hối hả nối đuôi nhau, như bị ma rượt, hướng về phía nhà thờ Phủ Cam.
Trong một nhóm, tôi nhận ra Duyên, một người đẹp khu Nhà Thờ Nhà
Nước, đang thất thểu bước cạnh bà chị. Cho đến giờ này, tôi vẫn luôn
mãi thắc mắc: Tại sao nhà tôi, một gia đình Công Giáo mộ đạo, nhà
thì chỉ ở cách nhà thờ Phủ Cam vỏn vẹn một con dốc, không quá vài
trăm thước, trong một biến động tầm cỡ này, mà không một ai trong nhà
nghĩ đến, hoặc đề nghị, chạy lên Nhà Thờ ẩn trú, như giáo dân, mọi
nơi, mọi lúc, vẫn thường làm, mỗi khi có biến động, với suy nghĩ
“Nhà Chúa” là nơi bất khả xâm phạm? Quả thật hy hữu, nếu không nói
là một phép lạ nhiệm mầu, đã cứu sống gia đình chúng tôi! Sau ngày
Thành Phố Huế được giải phóng, thành phần nạn nhân bị Cộng Quân bắt
theo, giết chết, trên đường rút quân, và xác được tìm thấy trong các
nấm mộ tập thể chôn lấp vội vàng số lớn là giáo dân, gồm thanh niên
ở lứa tuổi sinh viên, học sinh, các quân nhân, công chức đã bị VC bắt
giữ khi chúng đột nhập vào khuôn viên các nhà thờ Phủ Cam, Nhà Thờ
Dòng Chúa Cứu Thế hoặc những người đem mạng trình diện “Học Tập” ở
Chùa Từ Đàm! Cộng Sản, đội quân Vô Thần “bách chiến, bách thắng” là
ở chỗ đó: Với họ, các nơi thờ tự như Nhà Thờ, Chùa Chiền không đủ
linh thiêng, trang nghiêm, để chở che sinh mạng người dân vô tội, những
lúc cùng đường kẹt lối.
Mấy tuần trước Tết, họ đạo Phủ Cam, trước tình hình
chiến sự sôi động, cũng đã vội vã tổ chức các nhóm tự vệ võ
trang, trong đó, ngoài những giáo dân ngoan đạo, hăng say chống Cộng,
có lẫn lộn một số thuộc thành phần du đãng, khá nổi tiếng trong họ
đạo, như nhóm Phú Rỗ, Trọng Hê… Các ụ cát được dựng lên ở cổng xe
lửa, dốc đường dẫn đến nhà thờ, ngay sát cổng trước tư dinh ngày xưa
của Cậu Cẩn, cũng như các ngõ ra vào khác của họ đạo. Đêm đêm các
nhóm tự vệ, trang bị súng Carbin, lựu đạn tụ tập lại, canh gác cũng
có, nhóm bạn đùa giỡn, chọc phá cũng có. Cái đáng nói là thành
phần nạn nhân trong họ đạo bị thảm sát dịp Tết Mậu Thân, lại toàn
là những thanh niên con nhà, hiền lành, trong đó có một số bạn bè,
quen biết của tôi, một số ngày trước học cùng trường như: Kha, hiền
lành như con gái, bị bắt và sát hại cùng Bố là cựu DB Bùi Tuân;
Quang, con Ô. Tống Viết Văn, có thời làm Giám Đốc Nha Du Lịch Huế;
Duyệt, Ánh, và còn nhiều nhiều nữa. Riêng đám “phá làng phá xóm”
thì chẳng thấy thiệt mất mạng nào!
Trời vẫn u ám, không chút mặt trời, mưa vẫn rả
rích. Thỉnh thoảng một vài chiếc xe Jeep của phe “Ta” chạy vút qua,
nhưng lại do bộ đội của “Chúng” lái, với lá cờ nửa đỏ, nửa xanh da
trời, với ngôi sao máu mà mãi về sau, tôi mới biết đó là cờ “MTGP”.
Nản thật, điệu này, chắc Thành Phố Huế mình đi đong rồi, tôi thầm
nghĩ, biết đến bao giờ mới bình thường trở lại? Lợi dụng những lúc
rảnh rỗi, tôi xử dụng một tập giấy nhỏ, cỡ bằng một phần tư trang
giấy, làm thành một tập “nhật ký dã chiến”, không những viết cho tôi
mà chủ yếu là viết cho cô bạn gái, với ý nghĩ, đó sẽ là món quà
thật đặc biệt mà tôi sẽ trao lại cho cô ta, khi tình hình yên ổn trở
lại. Với nét chữ cố hữu, vừa nhỏ như con kiến, vừa xiên xẹo, tôi ghi
chép lại những suy nghĩ linh tinh, những sự kiện trong ngày, và hiển
nhiên cả những nổi nhớ nhung, thiếu vắng. Thời gian còn lại, tôi
thường lên xuống khu nhà bếp, tò mò theo dõi sinh hoạt của số binh
lính đang dừng chân nghỉ ngơi ở đó. Vào khoảnh khắc đó, phải nói,
tôi chưa biết gì về các vụ giết chóc, tắm máu đang xảy ra trong một
số khu vực thành phố, vì vậy tôi không cảm thấy sợ hãi, trái lại,
tôi muốn lợi dụng cơ hội để quan sát, “gần gũi” những người mà
trước đây vẫn được gọi là Việt Cộng, là kẻ thù không đội trời chung,
những người, mà chỉ cần nghe tên, ai cũng muốn co giò trốn chạy.
Tôi bắt chuyện với viên chỉ huy, người mà tôi đã có
dịp “trình diện” trước đó. Y khoảng 24, 25 tuổi, đang đứng riêng một
chỗ. Y ít nói, trầm ngâm, mặt mày tương đối sáng sủa, có học. Vẻ
trầm ngâm đó, giờ đây, tôi đoán, có thể do sự xúc động, bàng hoàng
trong lần tiếp cận đầu tiên với xã hội Miền Nam, một sự tiếp cận
dù còn quá mới mẻ, hạn chế, nhưng rõ ràng đã cho y thấy một Miền
Nam hoàn toàn khác xa với cái Miền Nam mà y và dân chúng Miền Bắc
đã được biết qua bưng bít, qua tuyên truyền láo khoét, ròng rã suốt
bao năm qua, một miền Nam đói khổ, bị Mỹ Ngụy kềm kẹp, bóc lột thê
thảm, một miền Nam đói cơm, rách áo. Trong giờ phút đó, dù ngu ngốc
đến đâu, tôi nghĩ, những người “chiến binh miền Bắc”, chưa kịp “hồ
hỡi” trong men say chiến thắng, đã hiểu ra rằng lâu nay, họ đã bị Đảng
lừa dối đưa vào cỏi chết. Từ đó, một suy nghĩ khác chợt làm tôi
lạnh người. Dù không thuộc thành phần chống Cộng cực đoan, giờ này,
tôi tin chắc một điều dù không có chứng cớ: Chính quyền Miền Bắc, sau
khi “xô đẩy” con em nhân dân vào mặt trận phía Nam, dứt khoác không bao
giờ mong muốn đón nhận những người đó trở lại miền Bắc, đặc biệt
là những bộ đội đã từng trực tiếp chiến đấu trong các thành thị
lớn miền Nam, đặc biệt như tổng công kích Tết Mậu Thân chẳng hạn. Lý
do dể hiểu là họ không muốn bị lật mặt nạ là đã lừa đảo nhân dân
miền Bắc quá lâu, về hiện trạng miền Nam. Phải chăng vì vậy mà “bộ
đội Cụ Hồ”, trước khi xâm nhập Miền Nam, đều được chỉ thị xâm vào
tay hàng chử “Sinh Bắc, Tử Nam”? Thoạt nghe, như một lời nguyện hào
hùng, nhưng nghĩ kỷ lại, đó là một lời…nguyền rủa, một bản án vô
nhân dành cho đoàn quân Nam Tiến:” Hãy đi vào Nam chiến đấu…xong
rồi…CHẾT ĐI, đừng bao giờ trở lại!” Bằng chứng khả tín cho những
điều tôi vừa nói: Ngay sau ngày Miền Nam thất thủ, không thiếu những
gia đình có thân nhân ngoài Bắc vào thăm, đều kể cùng một nội dung:
“Họ trịnh trọng mang vào vài ba ký gạo, nữa ký đường vàng, vài cái
tô đất“nói là để tiếp tế cho gia đình bà con trong Nam”. Điều này
chứng tỏ, đến giờ phút chót của cuộc chiến Nam Bắc tương tàn, người
dân miền Bắc chưa bao giờ biết được sự thật về Miền Nam, vì đã không
tiếp xúc được với bất cứ một cán binh nào đã có thời gian chiến
đấu trong Nam, hoặc những tù binh CS được trao trả trước đây. Số phận
những người nắm giữ “sự thật về miền Nam” này ra sao? Bị thủ tiêu
hàng loạt? Bị cô lập vĩnh viễn trong một trại tập trung nào đó? Tôi
thật tình không biết, điều tôi biết chắc, nếu những người này đã cơ
may sống sót và được trở lại với gia đình ở miền Bắc, chắc chắn
những gì họ đã biết về xã hội miền Nam, dù ít ỏi…cũng đã bị rò
rỉ ra ngoài. Điều này đã không xảy ra. Tôi e rằng, chẳng có một ai
đã may mắn sống sót để trở về và kể lại.
Viên chỉ huy lơ đãng nghe đài Hà Nội qua cái “đài”
nhỏ y để trên bàn. Bổng xuất hiện một tên du kích, tên du kích đầu
tiên tôi nhìn thấy tự sáng sớm. Y mặc bộ đồ màu xanh lục tươi, không
giống đồng phục của bộ đội. Nhìn tên này quả tình tôi thấy ơn ớn.
Người khá to con, tóc hớt một mái, cặp mắt đỏ lừ, trông dữ tợn, tay
lăm le một khẩu súng Colt 45. Đang bước, bổng nhận ra tiếng “đài”, y
dừng phắt lại, quay cổ nhìn hướng chúng tôi, từ từ bước lại, mở
miệng hỏi cộc lốc:” Đài ta?” Viên chỉ huy chẳng thèm trả lời, chỉ
gật đầu nhẹ. Sau khi ném cái nhìn về phía tôi, tên du kích quay
người, vội vã tiến về phía trước. Qua diễn tiến vừa qua, tôi nhận ra
hình như có chút gì mâu thuẫn, kỳ thị, phân biệt giữa Bộ Đội BV với
đám du kích miền Nam. Chẳng bao lâu sau, Mạ tôi kêu tôi lên nhà trên và
la tôi: “Răng mà không dấu mặt đi mà còn lẩn quẩn, chuyện trò với
bọn nó nữa, ngu dữ rứa?” Đúng là bản năng bảo vệ tuyệt vời của Gà
mẹ!
Chiều hôm đó, thật may mắn, toán quân buổi sáng được
thay thế bằng một toán quân chính quy khác. Chắc nhờ vậy mà chẳng ai
nhớ ra sự hiện diện của hai anh em tôi để nhắc nhở vụ lên Chùa Từ
Đàm “học tập”. Hiển nhiên bọn tôi cũng đủ thông minh để phớt lờ luôn.
Một bất ngờ, Bà Cô Tuyết, cô ruột của Ba tôi, tuổi
cũng đã trên 80, sống đơn độc trong căn nhà dọc bờ sông, cách nhà tôi
không bao xa, không biết bằng cách nào, đã lúc thúc đến được nhà tôi
“xin” tỵ nạn, nâng tổng số người trong nhà lên 9 mạng, đúng ra phải
nói là 9 người rưởi mới chính xác, lý do là Chị Dâu tôi lúc đó đang
mang bầu đứa con thứ hai, cháu Thanh Phong.
Càng về tối, tiếng súng càng dồn dập, phần lớn là
đạn đại bác mà tôi đoán chừng là của pháo binh Mỹ, từ xa rót về,
có lẽ sau khi máy bay quan sát, phát hiện sự tập trung của Cộng Quân.
Tiếng đạn, gầm thét nghe kinh hoàng như tiếng một đầu tàu xe lửa,
hùng hục nhắm ngay đầu mình phóng tới, theo sau là tiếng nổ xé tai,
bung ngực. Bóng đêm trở lại mang theo nỗi sợ hãi không tên. Dưới ánh
đèn leo lét của ngọn đèn cầy, cả nhà sinh hoạt tựa những bóng ma.
Trong bữa ăn tối, mọi người im lặng, cố nuốt những thức ăn mà bình
thường ai cũng ham thích. Với vẻ lo lắng, Ba tôi dặn dò: trường hợp
nguy hiểm, cần phải tháo chạy, điểm tập hợp được chọn sẽ là khu
nhà bỏ hoang của Cậu Cẩn, nằm ngay phía bên kia khu vườn nhà tôi. Tối
hôm đó, tùy theo mức độ của đạn pháo, chúng tôi phải di chuyển, khi
thì phòng ngủ, khi thì phòng ăn, khi thì bò vô hầm, vì dù hầm an
toàn thật, nhưng không thể cùng lúc chứa hết số người trong nhà,
nhất là trong tư thế nằm, dù co quắp. Trong giấc ngủ chập chờn, tôi
rùng mình nghe tiếng nửa la nửa khóc, từ bên phía nhà hàng xóm: “Mạ
ơi, Mạ ơi! Mở cửa cho con!”. Tôi nhận ra giọng của thằng Bé, nhỏ hơn
tôi vài tuổi, con người hàng xóm, mới dọn vô ở không bao lâu. Về sau
nghe nó kể lại, nó cũng được bộ đội “mời” lên Chùa Từ Đàm học
tập. Nó “nghiêm chỉnh chấp hành”, nhưng khi lên đến Chùa, không tìm
thấy ai, hình như tất cả đã di chuyển đi nơi khác, nên nó lại lò mò
trở về lại nhà. Phước đức nhà nó vậy mà còn lớn! Trong đêm, ngoài
tiếng súng nổ, xen lẫn tiếng kêu như tiếng cú rúc của các hỏa châu,
do máy bay thả hoặc qua đạn pháo binh, mang đến chút ánh sáng vàng
vọt giữa bóng đêm đen sánh, lạnh ướt và đầy chết chóc.
Dù chậm chạp, mệt mõi, màn đêm rồi cũng qua đi, thay
vào đó chút ánh sáng xám xịt của một ngày mưa lạnh, không phải của
bất cứ một ngày mưa lạnh nào, mà đúng ra là ngày mồng Ba của một
mùa Xuân tráo trở. Còn đâu hình ảnh lãng mạn của một “Huế thơ, Huế
mộng”, thật vậy, Huế của tôi đang hấp hối với vết thương chí mạng,
mà mãi gần nửa thế kỷ sau, vẫn còn rướm máu, chưa thành thẹo, trong
ký ức của mỗi người con xứ Huế.
Sáng mồng Ba Tết, mưa vẫn còn đó, nhỏ hột, nhưng rả
rích, liên tục. Khoảng 9 giờ, đạn pháo mỗi lúc mỗi dồn dập, mỗi
lúc mỗi khép lại gần hơn. Không ai bảo ai, cả nhà tự giác chun vội
vào hầm cát, khẩn trương, ngột ngạt. Tiếng Mạ tôi lắp bắp “lần
chuỗi” càng làm không khí thêm nặng nề. Phần tôi, tôi ngồi thúc thủ
cạnh cửa hầm cát, tay ôm siết một cái gối, đầu lạnh lùng, trống
rỗng một cách kỳ lạ. Càng về sau, tôi càng quen thuộc hơn với cái
phản ứng mà tôi xem là khá kỳ lạ của tôi: cứ mỗi khi phải đối diện
với hiểm nguy, tôi cảm thấy mình như bị tách làm hai: một nửa, đang
sống, đang hiện diện tại đây, lúc này; nửa kia, đứng bên ngoài, dửng
dưng, vô can nhìn vào như đang chứng kiến một ai đó, không phải mình.
Ba tôi, một lần nữa, như đã cảm nhận được tai ương đã kề cạnh, luôn
miệng nhắc nhở điểm tập trung bên khu nhà Cậu Cẩn.
Và điều mà mọi người lo sợ đã đến, nhanh chóng,
nhẹ nhàng. Một lằn chớp như sét, xé toạc bóng tối ngột ngạt, ánh
sáng chói chang chụp xuống, sau đó là một tiếng nổ xé ngực, xé gan.
Bầu trời xám ngắt bỗng nhiên xuất hiện trước mắt mọi người như một
phép lạ. Nửa căn nhà trên hoàn toàn biến mất trong khói bụi ngập
trời, như dưới chiếc đũa thần của tên phù thủy gian ác. Trong cơn hỗn
loạn, con người bổng nhiên biến thành những con vật, trang bị với
những phản ứng tự vệ, bản năng sống còn tuyệt vời. Tất cả năng lực
tích tụ cả đời người, chỉ thật sự được mang ra xử dụng trong phút
giây sinh tử như lúc này. Bà Cô tôi bình thường, lưng còng, đi lúc
thúc như chỉ chờ vấp ngã, giờ chạy như một lực sĩ việt dã. Một tên
trai trẻ, đang sức lớn, khoẻ mạnh như tôi, nếu có mọc cánh, chắc
cũng là chuyện bình thường! Điều đáng nói và có lẽ đấng xấu hổ,
là trong giờ phút “thập tử nhất sinh” đó, tôi không chắc mình đã
nhớ, đã nghĩ đến cha, đến mẹ, đến anh chị, cháu chắt, có thể đã
cần sự giúp đỡ của tôi? Sự thật là trong khoảnh khắc đó, bản năng
đã lấn lướt ý thức, và tôi cũng chỉ là một con thú trong những con
thú khác, bị săn đuổi và đang vô vọng tìm đường sống. Ưu tiên nào cho
chọn lựa phải trái, đúng sai? Đây là một nhận xét và còn là một
lời thú tội muộn màng, đến sau gần nửa thế kỷ. Trước đây, tôi hoàn
toàn không bao giờ nghĩ đến.
Hình như tôi là người đầu tiên có mặt tại “điểm
hẹn”, tay vẫn ôm ghì chiếc gối. Đàng sau tôi là anh chị tôi và đứa
con gái hai tuổi. Đạn pháo vẫn tiếp tục đào xới và có vẻ như đang hả
hê truy đuổi theo bầy người khốn khổ. Trong cơn hốt hoảng, giữa những
tiếng nỗ long trời lở đất, sỏi cát tung toé hòa lẫn với miểng đạn.
Tôi phóng đại vào một bể chứa nước vuông vức, làm bằng xi măng, cúi
mọp người, đầu gần chạm đáy. Cũng may, bể chắc đã cạn nước từ lâu,
chỉ tích tụ chút nước mưa những ngày đầu Tết. Tôi nằm đó một hồi,
cố lấy lại thần hồn; sau đó, tôi la to, cố cho mọi người biết địa
điểm tôi đang núp. Tôi nghe tiếng đáp trả của anh tôi, hình như cũng
đang nằm trong một bể nước khác, cách xa chỗ tôi chừng mươi thước.
Tiếng đạn vừa tạm êm, tôi nhanh chóng chọn một nơi ẩn khác, nằm giữa
hai bức vách, một bằng xi măng, một bằng gỗ, với khoảng cách vừa đủ
để tôi chui vào. Con bé Hạnh, người giúp việc, mới chừng 12 tuổi,
cũng đã chui tọt vào chổ tôi đang núp. Một tay ôm gối, một tay móc
tập “nhật ký”, tôi nguệch ngoặc viết vội vài hàng, một lời trăn
trối thì chính xác hơn: “Nếu có điều gì xảy ra cho tôi, xin ai đó
giao lại tập nhật ký này cho người bạn gái xui xẻo của tôi.” Dĩ
nhiên tôi ghi thêm tên và địa chỉ nhà nàng bên dưới. Thấy bé Hạnh
đứng hơi lố ra bên ngoài, hình như đang cố nhìn xem chiếc xe Jeep của
Ông Quận Trưởng hàng xóm đang bốc cháy dữ dội, tôi tính kêu nó bước
lui sâu vào bên trong, nhưng không còn kịp. Một tiếng nổ chụp xuống.
Qua đất cát mịt mù, tôi nhìn thấy con bé ngã quỵ xuống. Tai lùng
bùng, mắt đổ sao, tôi hốt hoảng nhoi người kéo nó sát vào trong. Qua
chút ánh sáng lờ mờ giữa hai bức vách, tôi nhìn thấy vết máu đỏ
đang chảy thấm qua lớp quần, từ bắp chân trên của con bé. Tuy nhỏ
nhưng khá can trường, dù bị trúng mảnh đạn, nó chỉ khóc khẽ chứ
không thành tiếng. Tôi ôm nó trong tay, mắt dáo dác nhìn quanh như đang
muốn tìm hướng giải quyết. Nhìn xuống hai bàn chân mình, tôi thấy
máu như đã tươm ra, sống bàn chân lốm đốm đỏ ửng, kèm theo cảm giác
rát bỏng, như bị ai xát muối, có thể kết quả do cát sỏi bắn ra từ
tiếng nổ. Trong hỗn độn, tôi cũng đã nghe được tiếng của ba mạ tôi,
cùng với bà Cô cũng đang ở đâu đó không xa. Tôi cho mọi người biết về
thương tích của bé Hạnh và gợi ý tất cã tập trung về hướng một căn
phòng, nằm gần cổng trước nhà ông Cậu, với mái bê tông coi bộ khá
kiên cố.
Nếu tôi không lầm, thời trước Đảo Chính 63, căn phòng
đó là nơi trú ngụ của toán lính gác tư thất Cậu Cẩn. Không bao lâu
sau, cả gia đình tôi đã hiện diện đầy đủ trong căn phòng. Cảm tạ Trời
Đất, tất cã đều vô sự, ngoại trừ bé Hạnh, với vết thương, mà qua
nhận định tại chỗ, có vẻ “lành”, chắc không ảnh hưởng gì tới động
mạch hoặc xương. Trong hoàn cảnh hiện tại, thuốc men không có, cách
giải quyết tạm bợ là đắp thuốc lá để cầm máu, và dùng mảnh vải
để tạm băng bó. Nhìn xéo xuống chiếc gối mà tôi đã vô tình ôm theo,
lúc nhà bị pháo sập, tôi ngạc nhiên nhìn thấy một lổ thủng bằng cỡ
đầu ngón tay út, ở góc trên chiếc gối. Nhìn kỹ, tôi nhận ra lỗ thủng
xuyên suốt từ trước ra sau, hơi cháy sém, hình như do mảnh đạn tôi ôm
vội gối vào lòng, trong cùng tư thế sáng nay, lúc bé Hạnh bị trúng
miễng đạn pháo. Theo hướng lỗ thủng trên gối kéo dài, tôi lạnh mình
nhìn thấy một lỗ thủng khác, trên ống tay trái, chiếc áo veste màu
xanh tôi đang mặc. Thì ra tôi suýt lãnh đạn mà không biết, có thể cùng
một mảnh đạn đã xuyên qua chân con bé Hạnh và chui thẳng vào chiếc
gối thần diệu của tôi? Một vài phân thấp hơn, cánh tay tôi đã không
còn nguyên vẹn, một gang tay nhích về hướng phải, tôi đã vĩnh viễn
mất khả năng yêu thương, hờn giận!
Khi tiếng pháo đã ngưng hẳn, tôi và anh tôi lò mò
trở lại nhà để kiểm điểm thiệt hại, xem cái gì còn, cái gì mất.
Ngoài ra, cũng để tìm kiếm thêm một vài thứ cần thiết như chăn mền,
quần áo ấm, thuốc men…và nhất là để “thu vén” một ít thức ăn Tết
còn sót lại cũng như vài thứ căn bản khác như gạo, nước uống, đèn
cầy để di chuyển sang nơi trú ẩn mới. Thật xót xa khi nhìn thấy căn
nhà thân yêu giờ chỉ còn lại một nửa, mà lại một nửa chẳng nguyên
vẹn chút nào, mái ngói và vách lỗ chỗ vết đạn. Phòng ăn và khu
nhà bếp, ngược lại, vẫn còn hiên ngang đứng vững. Phòng ngủ của Ba
tôi đã biến mất, trong đó có cái radio Philip thật bự,
với ánh đèn xanh như mắt mèo. Tuy là một đồ vật vô tri, vô giác,
nhưng với tôi, nó mang vô vàn kỷ niệm. Hằng đêm, ba tôi luôn chăm chú
theo dõi tin tức của đài BBC vào lúc 7:30 mỗi tối, tuyệt đối không
quên sót. Nghĩ lại, rõ ràng, về già, tôi cũng học cái tính “độc
tài” đó của Ba tôi. Ngày nào cũng phải xem trọn liên tiếp 3, 4 chương
trình tin tức Thế Giới, không thể nghe cùng lúc, tôi thâu trước, xem
sau. Ai nói năng ồn ào, hoặc điện thoại mà reo, thì cái mặt tôi nhăn
nhó, chắc còn hơn …khỉ ăn ớt! Tôi còn tiếc một món đồ khác, cũng
bị chôn vùi trong phòng Ba tôi: Một chiếc đồng hồ báo thức, chạy
bằng giây thiều, hình chữ nhật, kích thước bằng cỡ cái hộp bánh biscuit nhỏ,
thuộc loại đồ khá cổ của Pháp, làm bằng đồng, với các hình khắc
chạm khá công phu. Sau này nghe Ba kể lại, cái đồng hồ đó do Ông Cố
Nội tôi nhờ đặt mua bên Pháp. Cái tôi mê nhất ở cái đồng hồ này là
điệu nhạc đánh thức, tuy hơi buồn, nhưng giòn giã tựa tiếng đàn
tranh. Ba tôi quý cái đồng hồ đó lắm, bọn tôi chỉ lén “mượn” chơi.
Những lần duy nhất tôi được phép chính thức mượn nó, là vào những
lúc tôi ngã bệnh, trở trời, nóng da. Trước khi đi làm, Ba tôi âu yếm
lấy tay để lên trán, xem tôi nóng lạnh ra sao, sau đó mang đồng hồ
đến, để cạnh thằng Út. Tôi liên tục vặn giây thiều, nghe đi, nghe lại
mãi cái âm điệu thánh thót đó, đến đổi giờ này, tuổi gần… thất
thập, âm điệu đó vẫn còn in đậm trong ký ức tôi.
Ngoài phòng ba tôi, những thiệt hại kế tiếp là
“phòng trang điểm” của mạ tôi, trong đó, có bộ bàn ghế trang điểm,
với cái kiếng hình ovale đứng, dáng vẻ rất Tây phương,
làm bằng gỗ màu vàng mật láng lẩy. Bên cạnh là tủ lớn đựng chén,
đĩa, ly, tách xưa quý và thường chỉ được dùng đến khi có khách
“quý”. Trong danh sách thiệt hại còn phải kể đến phòng khách, với
bộ bàn ghế bằng gỗ mun đen bóng, đường nét Tây phương nhưng khá cổ
điển, nơi mỗi ngày mạ tôi tiếp khách chủ, hoặc các bà bạn. Cũng
trong phòng đó, còn có cái bàn thờ, nói là “bàn thờ” nhưng thật ra
đó là một “kiến trúc” bằng gỗ khá đồ sộ, trên đó có luôn cả “Nhà
Tạm” như ở nhà thờ, tượng ba Đấng với đường nét khá sắc sảo toàn
bộ được cách ly bởi tấm màn voile mỏng. Không xa đó
là cái tủ lạnh, niềm “mơ ước” một Thời. Vào những ngày nắng nóng,
tôi vẫn hay quậy sữa cà phê, đổ khuôn đá, “sản xuất” cà rem kiểu du
kích. Tất cả giờ chỉ là phế thải chôn vùi giữa đống gạch vụn.
Phía phải căn nhà là một phòng khách thứ hai, với
bộ bàn ăn lớn, một bộ salon màu xanh lục với nệm lò xo kiểu tân
thời, cộng thêm hai phòng khác: một của tôi, một của anh tôi…Tất cả
tạm thời còn đứng vững mặc dầu mái ngói và vách đã bị mảnh đạn
bắn vỡ nhiều mảng lớn. Cái TV mà tôi và anh tôi đã kỹ lưỡng đóng
thùng và cất dấu lên đầu tủ, cũng đã là “nạn nhân” xui xẻo của
trận pháo vừa qua. May mắn cho tôi, chiếc xe Honda của
tôi vẫn còn nguyên vẹn. Không dám khinh địch như trước đây, tôi đem xe
vào dấu trong hầm cát, lại cẩn thận khóa cổ xe và luôn cả càng
chống bằng ổ khóa đồng thật bự. Tôi còn lấy thêm cái mền cũ đắp
lên che dấu.
Những ngày sống tạm trong khuôn viên nhà “ông Cậu”
khá yên ổn, hiển nhiên cuộc chiến vẫn còn đó, súng vẫn nổ, khi thưa
thớt, khi dồn dập, chụp xuống đầu chúng tôi căn phòng tuy hẹp nhưng
mái lại đúc bằng bê tông, nên vẫn cho chúng tôi được sự bảo vệ cần
thiết. Điều đáng ngạc nhiên là sau gần một tuần lễ, ký ức tôi hầu
như đã không có bất cứ một ghi nhận nào về cái địa điểm, có thể
nói là khá “lịch sử” này, nơi đã cho gia đình chúng tôi một nơi nương
náu tạm thời trên đường chạy loạn: “Dinh thự” của dòng họ Ngô Đình,
gia đình quyền lực một thời của Miền Nam Việt Nam, nơi mà chỉ chừng
năm, sáu năm trước, đã từng chứng kiến cảnh “ngựa xe tấp nập”, người
vô, kẻ ra: công thần cũng có, mà nịnh thần, phản trắc chắc…còn nhiều
hơn. Những nhân vật một thời tên tuổi, địa vị, quyền lực, nay đã đi
dần vào quên lãng. Suốt hơn mười tám năm, dù sống kề cận, tôi vẫn
chưa một lần “được” hân hạnh đặt chân vào “đặc khu” này, trước ngày
TT Diệm bị lật đổ, cũng như sau đó. Đúng ra điều đó đã có thể dể
dàng xảy ra. Lý do là gia đình bên Ngoại tôi có quan hệ khá gần với
gia đình họ Ngô: Bà Ngoại “sau” của tôi và Bà cụ Khả, mẹ Ông Diệm,
là chị em ruột. Một số các Cậu, các Dì của tôi, nhờ có qua lại,
gần gũi, đã hưởng được ít nhiều ân sủng của chế độ. Riêng gia đình
tôi thì tuyệt đối không, cũng chỉ tại ba tôi tánh tình bướng bỉnh,
không ưa điếu đóm, lại có vẻ hơi coi thường trình độ văn hóa của Ông
Cố Vấn. “Phật nhà không thiêng” là thế! Vì vậy suốt thời gian làm
“hàng xóm”, tôi chỉ biết giang sơn Ông Cậu qua những lần leo rào bẻ
măng. Tôi không hề tò mò về cái “Dinh-Thự-một-thời” ấy. Ngay cả vào
giờ phút này, do bom đạn đẩy đưa, dù đã ở gần hết tuần lể trên
phần đất một thời là vùng đất cấm này, tôi vẫn dửng dưng, vẫn đã
không nhìn thấy gì, ngoài bốn bức vách khá kiên cố đang che chắn cho
gia đình tôi.
Sau một đêm bị đạn pháo liên tục và khá gần kề, gia
đình tôi một lần nữa, lại phải tính chuyện “di tản chiến thuật” đến
một nơi nào khác an toàn hơn. Tất cả đồng ý kéo nhau lên họ đạo Phủ
Cam, vì rất gần nơi chúng tôi đang ở. Đoàn người gồm chín mạng do tôi
dẫn đầu. Nhiệm vụ của tôi là ẵm con bé Hạnh, bị mảnh đạn ở chân.
Bước ra khỏi cổng trước, vừa quẹo trái, hướng về phía sân trước nhà
thờ, chỉ cách đó chừng hơn trăm thước. Vừa đến cổng xe lửa, đoạn
đường sắt nằm giữa Dinh Cậu Cẩn và Lầu Ông Bửu, tôi giật bắn người
khi nhìn thấy một nhóm Bộ Đội chừng ba, bốn tên, đang ngồi sau bức
vách hông. Họ dí súng về phía bọn tôi đồng thời hỏi dồn: “Đi đâu?”
Tôi bất ngờ, miệng méo xệch, trả lời: “Em tôi bị trúng đạn, máu ra nhiều
quá, cần di chuyển gấp, xin mấy anh thương cho qua.” Họ hỏi tiếp: “Bên
kia có Mỹ Ngụy không?” “Dạ không có!”, tôi mau mắn trả lời. Một chút
ngập ngừng quan sát, họ gật đầu đồng ý. Một phen lên ruột! Tôi đoán
chừng chắc cũng tại số Bộ Đội tập trung phía ngoài bức tường này,
mà đêm qua, chúng tôi đã bị đạn pháo phủ đầu.
Đoàn chúng tôi tiến về phía họ Đạo, thay vì đi
thẳng, trực diện vào khuôn viên nhà Thờ, chúng tôi quẹo phải, vòng
theo đường hông, đi ngang trước nhà Cụ Ưng Trạo. Không bao xa, chúng tôi
lại một phen hoảng sợ, phía trước mặt, nằm chênh vênh bên lề đường,
là xác một người đàn ông, đã ngả màu xám đen, nằm sấp mặt, tay co
quắp như cố bám lấy mặt đường trơn lạnh … Vài ba con chó ốm đói đang
vần lượn chung quanh. Hình ảnh chết chóc đầu tiên mà chúng tôi ghi
nhận được. Chúng tôi rón rén bước vòng tránh xác chết, tiến về
phía trước.
Cả họ đạo ngày nào đông đảo, ồn ào, chộn rộn…giờ
yên lặng đến phát sợ, vườn không, nhà trống, không một bóng người.
Còn chăng là một những con vật bị chủ bỏ lại: chó, mèo, heo, gà đang
chạy quanh quẩn, tìm kiếm miếng ăn. Cứ vậy chúng tôi cứ nhắm mắt
tiến sâu khá xa vào một khu xóm mà trước đây tôi chưa hề lai vảng.
Chúng tôi chưa biết phải quyết định ra sao: đi tiếp hay tạm dừng chân?
Ba tôi đề nghị tìm một nơi để tạm dừng chân, nghỉ ngơi và cũng để
ước tính lại tình hình. Chúng tôi chọn được một căn nhà không đến
nổi tệ, nhưng với ưu điểm là đã có sẵn một hầm cát khá chắc chắn.
Sau khi nghỉ tạm chốc lát, tôi và anh tôi quyết định đi một vòng thám
sát chung quanh, xem còn sót lại ai không và cũng để tìm kiếm thêm
chút lương thực, vì số mang theo rất hạn chế và thời gian dừng chân
lại đây không biết sẽ bao lâu?
Tôi mừng rỡ phát hiện được một hộp bột trái cherry,
loại của quân đội Mỹ, trong còn chứa chừng 10, 15 gói nhỏ. Riêng Anh
tôi mang về từ nhà kế cạnh, một hũ tai heo ngâm nước mắm đường đã
bắt đầu nổi mốc. Trong suốt thời gian chạy giặc, tôi không nhớ có
lúc nào mình thực sự cảm thấy đói, hoặc thiếu thốn miếng ăn? Phải
chăng trong cơn sợ hãi, ăn uống không còn là ưu tiên hàng đầu hay tại
khâu tiếp vận của gia đình tôi tốt???
Sau một ngày tạm ổn định, chúng tôi thấy có một gia
đình còn sót lại, ở ngay đầu ngõ, không cách căn nhà chúng tôi đang
trú ngụ bao xa. Họ cho biết vì gia đình khá đông và nhiều con trẻ,
nên đành nằm chịu trận, thay vì theo các gia đình khác di tản xuống
Phú Bài, nơi mà theo lời đồn đoán, quân đội Mỹ đang tập trung trong
nỗ lực tái chiếm Huế. Sau hai ngày đầu khá yên ổn, dù phải chui rúc
trong một không gian khá chật chội, tiếng súng đại bác lại bắt đầu
rượt đuổi trở lại. Đất đai, nhà cửa rung chuyển như qua cơn địa chấn.
Sau khi bàn thảo với gia đình còn sót lại, dù biết nguy hiểm cùng
cực, chúng tôi lại quyết định rời bỏ vị trí này, với ý định tìm
cách thoát về Phú Bài. Sáng hôm sau, sau một đêm chuẩn bị, hai gia
đình hẹn gặp nhau đầu ngõ để khởi hành. Trời vẫn lạnh và xám
ngắt. Khung cảnh xóm làng tang tóc, xơ xác, sau gần hai tuần lửa đạn,
cây cối ngã đổ, nhà vách lỗ chỗ vết đạn. Lần này vì dự trù đường
xa, tôi và anh tôi đã tự chế một cái cáng, để di chuyển con bé Hạnh,
vết thương ở chân nó có vẻ sưng lên và vẫn còn nhức nhối, dấu hiệu
nhiễm trùng. Gia đình kia cũng khoảng trên dưới mười người, trong đó
hết phân nửa là trẻ con, mặt mày dáo dát, chạy theo mấy người lớn.
Chúng tôi luồn lách theo những ngõ hẹp khá lâu, trước khi đụng tới
đường cái. Tôi không còn nhớ tên, nhưng con đường đó nối dài, từ cầu
Kho Rèn kéo lên ngã An Lăng. Chúng tôi lầm lũi bước đi như đoàn ma
trơi, không ai nói với ai một tiếng. Đường sá, nhà cửa tiêu điều như
bãi tha ma, không một bóng người, không một dấu tích của sự sống.
Súng vẫn còn nỗ, khi xa, khi gần, tiếng lóc chóc của các loại súng
nhỏ, thỉnh thoảng vang vọng tiếng trọng pháo làm rung chuyển mặt
đất. Rải rác một vài xác chết vẫn còn nằm vạ dọc đường, xác đã
chương sình, đen đủi, lở loét, với một lũ heo đói đang vần vũ chụp
giựt. Cũng vì những hình ảnh đó mà dân Huế, mấy tháng sau biến cố,
không ai dám bán thịt heo, mà cũng chẳng ma nào dám mua, mặc dù thực
phẩm vẫn còn khan hiếm trầm trọng. Khi còn cách cầu Kho Rèn chừng
vài trăm thước, chúng tôi giật mình thấy một đám bộ đội đang lúc
nhúc đứng trong khu nhà vườn, nằm bên trái, dọc theo đường đi. Cho đến
giờ tôi vẫn luôn tự hỏi: tại sao bọn họ đã không chặn đoàn người
chúng tôi, để làm khó dễ, hoặc để truy tìm “ngụy quân”, “ngụy quyền”
đang tìm đường tẩu thoát, như họ vẫn thường làm, trong hoàn cảnh
tương tự? Hay là bọn họ cũng đã mỏi mệt, chán ngán với trò chơi
giết chóc? Thôi thì cứ xem như là một phép lạ, Ơn Trên che chở, phước
đức ông bà.
Ra đến được bờ sông, nhóm chúng tôi đã không vượt
được cầu Kho Rèn để theo đường Lý Thường Kiệt, đến khu Trường Thiên
Hữu vì cầu đã bị giật sập. Do đó chúng tôi phải quẹo phải, đi dọc
theo bờ sông, hướng về phía cầu An Cựu, cách đó cũng không bao xa.
Dù thành phố đang trải qua một cơn máu lửa ngập
trời nhưng nhìn xuống, vẫn là dòng sông quen thuộc mọi ngày, vẫn mãi
là hình ảnh của một dòng sông êm ả của những tháng ngày an lành,
hạnh phúc. Dòng sông xứng đáng là biểu tượng của sự chịu đựng, tha
thứ.
Khi đến gần cầu An Cựu, từ đàng xa, tôi đã có thể
nhìn thấy có khá nhiều sự đi lại, tấp nập, người có, xe cộ có.
Càng đến gần, chúng tôi mừng rỡ nhận ra trong đám người có một số
TQLC Mỹ lẫn Việt, trang bị súng ống, đạn dược, nón sắt, áo giáp
đang làm nút chặn ngay đầu cầu. Sau gần 20 ngày trôi giạt, bất định
giữa cái sống và cái chết, đây là lần đầu tiên, ý niệm sống có vẻ
đang chiếm ưu thế! Trong suốt cuộc đời, chưa bao giờ hình ảnh người
lính “quốc gia”, người lính Đồng Minh lại trở nên thân quen, gần gũi,
trấn an như hiện giờ. Chưa bao giờ ý niệm “Phe ta”, “Phe địch” lại rõ
nét như giờ phút hiện tại. Người lính tầm thường, quen thuộc đến
nhàm chán mọi khi, nay bỗng nhiên biến thành hình ảnh oai vệ của một
Thiên thần Micae hộ mạng.
Câu hỏi đầu tiên của họ: “Đằng kia có thấy Việt Cộng
không?” Bà chị Dâu tôi vô tư, vung tay chỉ chỏ: “Đầu tê tề, nhiều lắm,
nơi khúc quẹo!” Mạ tôi, có vẻ chưa thoát cơn sợ hãi, dặn chừng chị
tôi: “Chưa yên mô con, coi chừng, đừng nói bậy bạ!” Mà cũng đúng vậy,
tiếng súng lớn nhỏ, khi xa, khi gần, vẫn còn ầm ĩ quanh đây. Khi được
hỏi thăm, mấy người lính, tay chỉ số người đang gồng gánh đi ngược
lại, vừa giải thích: “Khỏi cần về Phú Bài nữa, không thấy Dân ở
dưới đó đang gồng gánh trở về đó sao? Phía Hữu Ngạn, phần bên kia
sông An Cựu coi như đã yên ổn, khu vực Dòng Chúa Cứu Thế, Thiên Hữu,
Đồng Khánh, Quốc Học đã khá bình thường trở lại, tụi nó rút đi
hết rồi.” Theo họ, phía Tã Ngạn vẫn còn đánh đấm, đặc biệt ở khu
vực Đại Nội thì vẫn còn đánh lớn, máy bay lên xuống ném bom liên
tục.
Thật may mắn, vì nếu phải chạy xuống tận Phú Bài,
cách đây hơn mười cây số, với một nhóm người tuy không đông, nhưng gồm
một bà Cô trên 80, một cô bé đang mang thương tích phải cáng, một bà
bầu cũng gần đến ngày sinh nở hành trình chắc chắn sẽ vất vả lắm
lắm. Vừa qua được cầu, chúng tôi quyết định thay đổi lộ trình, nhắm
hướng Dòng Chúa Cứu Thế và Trường Thiên Hữu. Tinh thần mọi người bỗng
trở nên phấn chấn hơn, nói cười vui vẻ, chứ không lo lắng, sợ sệt,
như ở đoạn khởi hành. Tội nghiệp Mạ tôi, hai mươi ngày qua, không nghe
một lời than thở, nay vừa bước đi, vừa chép miệng:” Làm răng có được
một miếng trầu nhai cho đỡ thèm!” Thật ước sao được vậy, vì không bao
lâu sau, khi đi ngang qua Cung An Định, nơi trú ngụ của Bà Từ Cung, mẹ
Vua Bảo Đại ngày xưa, chị dâu tôi nhanh mắt, thấy có bà cụ ngồi bên
đường, rao bán cau trầu. Mắt Mạ tôi sáng lên khi nhìn thấy mấy lá
trầu xanh… dù hơi bầm dập, mấy miếng cau khô mà giờ đây, coi còn quý
hơn cã sơn hào, hải vị. Khỏi cần nói, ai cũng có thể đoán là bà
già bán trầu kia, có thể hí hửng ra về ngay, vì đã có đủ tiền nấu
một bửa cơm khá thịnh soạn cho gia đình đêm nay. Riêng bà già tôi,
miệng nhai miếng trầu đầu tiên sau hơn hai tuần chạy loạn, cũng hạnh
phúc không kém!
Khi gần đến khu vực nhà thờ DCCT, chúng tôi được tin
Trường Thiên Hữu nay đã được tổ chức tạm thời thành một trung tâm tỵ
nạn, đón nhận những người chạy loạn suốt gần cả một tuần qua. Thế
thì còn gì bằng, cả ba anh em trai chúng tôi, và ngay cả chị dâu tôi,
đều là những học trò kỳ cựu của Trường Thiên Hữu này.
Đến nơi, chúng tôi mừng rỡ khi thấy không khí tấp
nập trong khuôn viên nhà trường, người qua, kẻ lại, dù trên khuôn mặt,
dường như vẫn còn in đậm nỗi kinh hoàng của những ngày máu lửa. Để
gia đình ngồi nghỉ tạm ở một góc sân trường, tôi và anh tôi đi một
vòng thị sát, tìm hiểu tình hình. Gần như toàn bộ các lớp học,
ngay cả những hàng lang, Phòng Khánh Tiết… nay đã đầy đặc người, nằm
ngồi hỗn độn, giữa những hành trang, bao bị lỉnh kỉnh, choán hết cả lối
đi. Đang bối rối vì chưa biết phải làm sao, bỗng thấy xuất hiện một
khuôn mặt thật thân quen: Cha Oxarango, Linh Mục đặc trách phòng thí
nghiệm, và cũng là vị Thầy của chúng tôi trong suốt thời gian học ở
trường Thiên Hữu, và luôn cả tại Đai Học Văn Khoa và Sư Phạm. Phải nói
là cả “hai bên” đều thật sự mừng rỡ khi nhận ra nhau. Sau khi ôm choàng
chúng tôi và thăm hỏi tình hình, Cha đã có ngay giải pháp cho gia
đình chúng tôi. Cha lật đật dẫn hai chúng tôi đến trước Phòng Thí
Nghiệm, móc túi lấy chìa khóa, mở cửa, trịnh trọng trao chìa khóa
cho chúng tôi, với một nụ cười thật tươi và nói: “Depuis aujourd’hui,
c’est ici, votre refuge, mes enfants! Je vous fais confiance!” (“Kể từ hôm
nay, đây là nơi tạm trú của các con! Cha đặt tin tưởng vào các con!”)
Chúng tôi vừa ngạc nhiên, vừa cảm động trước nghĩa cử của vị linh
mục, Thầy của chúng tôi. Phải nói, Phòng Thí Nghiệm này là “nơi bất
khả xâm phạm” của Cha Ox., Ngài đã đổ bao công sức xây dựng, phát
triển và bão trì cơ sở này. Vì vậy, phòng này bao giờ cũng cửa
đóng, then cài, ngoại trừ khi Phòng được xử dụng trong quá trình
giảng dậy. Suốt thời gian dài theo học tại trường, chưa bao giờ tôi
thấy Phòng thí nghiệm mở cửa mà không có bóng dáng cha Ox. Vậy mà
giờ đây, cha đã sốt sắng cho gia đình chúng tôi vào trú ngụ không
chút ngập ngừng.
Trở lại những ngày tạm trú tại Trường Thiên Hữu,
sau những ngày chạy loạn biến cố Tết Mậu Thân. Phòng Thí Nghiệm dù
không rộng lắm, cũng đã cho chúng tôi một nơi chốn tá túc tạm bợ
khá ưu đãi, riêng rẽ, so với đa số những người cùng hoàn cảnh. Sinh
hoạt trong khuôn viên trường khá tấp nập chẳng khác một chợ phiên.
Trong sân trường, người ta tụ tập từng nhóm nhỏ, ngồi kể lại cho nhau
nghe những kinh hoàng vừa qua, người nào mặt mày cũng khẩn trương, có
người vẫn còn khóc thút thít vì tang tóc trong gia đình. Một số
khác đem ra bày bán bất cứ cái gì có thể bán được: vài bó rau,
trái bầu, trái bí, ít lá trầu, vài miếng cau khô, thuốc lá…thỉnh
thoảng có cả thịt gà, heo, trâu với giá cả không “hữu nghị” chút nào.
Sau mấy tuần ăn chay, nằm đất, miệng mồm đã bắt đầu nhớ tới thịt,
cá, nhưng nói tới thịt heo thì xin chịu thua, hình ảnh mấy con heo
đói, gỡ gạc bên cạnh những xác chết sình thối, vẫn còn ám ảnh đa số
người dân chạy giặc. Gạo được phân phát miễn phí cho các gia đình tỵ
nạn, căn cứ trên số đầu người kê khai. Cũng có bàn y tá phát thuốc
cho người bệnh, cũng như chăm sóc cho những người bị thương tích nhẹ.
Nhờ vậy mà vết thương của con bé Hạnh cũng đã khả quan hơn.
Trong những ngày đầu tại Trung Tâm Tỵ Nạn này, tôi
ngạc nhiên nghe tin Chủ Tịch Ủy Ban Nhân Dân Cách Mạng Thành Phố Huế,
trong thời gian biến động vừa qua, chẳng ai khác hơn là một vị Thầy
của tôi, tại ĐH Văn Khoa Huế: GS. Tiến Sĩ Lê Văn Hảo, một trí thức
người Huế, tốt nghiệp từ Pháp về, nghe đâu vào khoảng năm 64, 65.
Ông cỡ “băm mấy”, vừa người, khá đẹp trai, dáng vẻ
trí thức, theo kiểu tài tử Gregory Peck. So với các giáo sư khác như
thầy Quới với đầu hói, thầy Bùi Thế Cần, vừa thấp, vừa nhỏ con,
kiểu Tintin, có thể nói thầy Hảo khá nổi bật, với cách ăn mặc khá
“chic”, thầy thích mặc mấy bộ “complet” loại vải “Tussor”, mềm, mát,
màu sáng. Tôi sẽ không ngạc nhiên, nếu thầy là “thần tượng lòng em”
của nhiều nữ sinh viên VK Huế thời đó dù Thầy đã có gia đình. Nói
thật, tôi không còn nhớ chính xác tên gọi môn dạy của thầy, chỉ nhớ nó
mang nội dung về Triết và được giảng dạy bằng tiếng Việt. Nghĩ lại,
rõ ràng Thầy đã cố tình hé lộ những biến động sắp xảy ra, cũng
như chân tướng của mình, trong một bài giảng, mà không một ai trong
chúng tôi đã nắm bắt được. Một hôm, không bao lâu trước cuộc binh biến
Mậu Thân, cỡ một tháng, tháng rưỡi, nội dung bài học hôm đó nói về
“cái Đẹp”. Tôi nhớ Thầy thao thao bất tuyệt khi nói về cái đẹp, có
một đoạn, tôi còn nhớ đại khái: Khi nói về cái đẹp, chúng ta hay có
khuynh hướng liên tưởng về một cái gì đó yểu điệu, mong manh, lả
lướt, một cái gì đó thuộc phái yếu… vẻ đẹp của một cành lan, một
thiếu nữ, nhưng thưa các bạn, cái đẹp cũng có thể là một cái gì
đó mạnh bạo, kiêu hùng, nam tính như cái đẹp của một đoàn quân chiến
thắng đang tiến vào thành phô. Thầy đã nói rõ đến vậy, chỉ tại tôi
và các bạn không ai chịu nghe và hiểu đấy thôi. Thật là một ngạc
nhiên không ai ngờ, đẹp trai, học giỏi, mà lại học ở Pháp về, cùng
lắm, có thể là một trí thức thiên Tả, chứ trực tiếp gia nhập và
hoạt động cho VC thì đúng là hết biết. Ngoài thầy Lê Văn Hảo, còn
có một số khuôn mặt trí thức, sinh viên nổi bật khác của Huế, trước
là thành viên tranh đấu chống Chính Phủ, đặc biệt qua Phong Trào đấu
tranh Phật Giáo giờ đây đã để lộ bộ mặt VC của mình, một số đã vô
bưng trước đó không bao lâu, nay trở về với lực lượng chiếm đóng, như
GS Việt văn Hoàng Phủ Ngọc Tường, SV Y Khoa Hoàng Phủ Ngọc Phan, SV Sư
Phạm Nguyễn Đắc Xuân, GS Nguyễn Đóa, hoặc những khuôn mặt mới xuất
hiện như Thượng Tọa Thích Đôn Hậu, SV Nguyễn Thị Đoan Trinh. Trong
những người này, ai là kẻ chủ động tự nguyện? Ai là kẽ bị dụ dỗ?
Ai bất đắc dĩ, cùng đường kẹt lối nên phải vào bưng? Chỉ có họ mới
có câu trả lời chính xác.
Sau mấy ngày nghỉ ngơi, bồi dưỡng, và khi nghe tin
tình hình dọc theo sông An Cựu, Phủ Cam đã khá yên ổn, Ba tôi theo chân
một số người, về thị sát khu nhà ở, mà không cho phép mấy thằng con
trai đi theo, lý do dễ hiểu là không an toàn cho những người độ tuổi
thanh niên. Không ngờ chuyến đi thăm dò đầu tiên đó, lại mang đến một
kết quả hết sức bất ngờ. Ba tôi đã trở lại được nhà cũ và đã mang
về lại được chiếc xe Honda của tôi. Đúng ra đó là một việc làm muôn
vàn khó khăn, vì chiếc xe của tôi đã bị khoá, vừa cỗ xe, vừa chân
chống, mà ba tôi lại không mang theo khóa; mà dù có khóa, ông cũng
không biết xử dụng. Cũng may ông lanh trí, bỏ tiền thuê vài cậu thanh
niên, khiêng hẳn chiếc xe từ hầm cát nhà tôi về đến tận sân trường!
Nhìn lại chiếc xe “thân yêu” còn nguyên vẹn, sau nhiều tuần xa cách,
tôi vô cùng mừng rỡ vì đúng là…của mất đi, nay tìm lại được! Các
cây xăng vẫn còn đóng cửa, nhưng xăng quân đội chợ đen thì cũng dể
kiếm. Thế là chim lại mọc cánh, mặc sức tung bay. Tôi bắt đầu vác xe
chạy lòng dòng, rồi khi tình hình cho phép, ngày một xa hơn, chủ yếu
là các trung tâm tỵ nạn, mong tìm tin tức cô bạn gái. Thành phố,
phía Tả Ngạn, đặc biệt khu Thành Nội, bom đạn vẫn còn dồn dập. Đứng
bên này sông Hương, nhìn máy bay Phantom của Không Lực Mỹ tung lượn,
ném bom, cố vùi dập những ổ kháng cự cuối cùng của VC trong khu
Hoàng Thành, chẳng khác nào như đang xem phim Đệ Nhị Thế Chiến. Một
số người vẫn còn chạy giặc, số khác lại quyết định hồi cư, như một
đám Cái Bang, quần áo xốc xếch, gồng gánh, bồng bế, chen lấn không
phải để đi qua cầu, mà phải nói là leo qua cầu, vì đoạn giữa cầu
Tràng Tiền đã bi giật sập. Nhìn cảnh hỗn độn, trượt ngã, la hét mà
cười ra nước mắt.
Thành phố điêu tàn, đổ nát, không nhà nào còn nguyên
vẹn, đặc biệt nhà Bưu Điện và Ty Ngân Khố bị thiệt hại nặng nề,
vách lỗ chỗ vết đạn, mái ngói vỡ vụn. Mùi tử khí nặng nề bao
trùm thành phố, do nhiều ngôi mộ được đắp vội dọc bên đường. Còn đâu
thành phố Huế với Sông Hương, Núi Ngự, biểu tượng của thanh bình và
lãng mạn trong bao tác phẩm văn học, thi ca?
Sau bao tìm kiếm, cuối cùng tôi đã gặp lại cô bạn
gái cùng gia đình, đang tá túc tại trung tâm tỵ nạn, đặt tại Trường
Quốc Học. Gặp nhau sau cơn lửa đạn, hai đứa mừng mừng, tủi tủi. Tôi
cầm nhẹ tay nàng. Mắt nàng chớp nhanh cảm động, khi nhận tập giấy
nhỏ khá dày, chi chít những dòng chữ “kiến bò”, cong queo, lấm láp
mà tôi đã ấp ủ, đã viết cho nàng mỗi ngày, từ những giờ phút đầu
tiên của cuộc biến động. Tôi cũng nhận được từ nàng, một cái bao
gối, với một đóa hồng thêu thật lớn, thật khéo, tỉ mỉ, với chử
LOVE nằm trên cùng. Tôi cảm động vô cùng! Qua trao đổi, tôi được biết,
gia đình nàng bình yên. Ngôi nhà nàng nằm ở phía Tã Ngạn, may mắn
còn khá nguyên vẹn, và nàng đến khu định cư này cũng khoảng gần một
tuần nay.
Sau 26 ngày bị chiếm đóng, Thành phố Huế được tái
chiếm, được THỰC SỰ giải phóng bởi lực lượng Mỹ và quân đội Việt
Nam Cộng Hòa, trong đó chủ lực là các Sư Đoàn Nhảy Dù và TQLC.
Huế không những bị tấn công nặng nề, mà còn bị
chiếm đóng lâu nhất, suốt 26 ngày đầu năm Âm Lịch, đứng đầu danh sách
thiệt hại trên toàn quốc, về cơ sở vật chất, nhà của. Đáng nói
nhất là thiệt hại về nhân mạng, với tổng số trên bốn ngàn người dân,
bao gồm không những quân nhân, công chức, thân hào, nhân sĩ, mà còn vô
số thanh thiếu niên, học sinh, sinh viên, dù còn đang ở độ tuổi 15, 16
đã bị VC “tập trung”, một số bị xét xử qua loa, bị kết án tử hình
và bị hành quyết trước mắt gia đình, vợ con, xóm giềng, bị vùi dập
vội vã xuống các hố chôn đôi khi do chính nạn nhân đào lấy; số khác
bị bắt dẫn theo và thảm sát một cách dã man, bằng súng đạn, bằng
cán cuốc đập vào đầu hoặc bị chôn sống. Xác của họ đã được tìm
thấy, nhiều tháng sau khi Huế được tái chiếm, ở một số địa điểm nằm
rải rác các vùng ngoại ô Huế, mà nổi tiếng nhất là khu Khe Đá Mài.
Đấy là chưa kể đến những thiệt hại của hàng ngàn sinh mạng khác do
bom đạn từ hai phía, qua các trận đánh đẫm máu, trên khắp hang cùng
ngõ hẻm của thành phố.
Cộng Quân bị thiệt hại nặng nề, đã mở đường máu,
rút lui vào rừng rậm và vẫn còn bị truy kích bởi các cuộc oanh tạc
của máy bay Mỹ. Quang cảnh đường phố từ từ nhộn nhịp trở lại, chợ
búa dù thiếu hụt hàng hóa, cũng bắt đầu nhóm họp trở lại, chủ
yếu là rau quả, mắm muối. Các ngôi mộ tạm bợ bên lề đường cũng
được di dời. Nhìn cảnh đào xới, gia đình khóc lóc, xì xụp vái lạy,
bên cạnh quan tài, giữa hương khói nghi ngút là những hình ảnh ảm
đạm, u uất, trong những ngày sau khi thành phố được tái chiếm. Một
điều đáng ngạc nhiên là sau những ngày chạy giặc, tôi lại mập ra, cân
trên 60 ký, thay vì 55, 56 như mọi khi. Chị Dâu tôi cũng mập hẳn ra,
cái bụng thì lắc lư một cách đáng báo động. Trong suốt hai tuần sau
đó, chúng tôi, dù vẫn còn tạm trú tại Thiên Hữu, đã trở lại nhà cũ
để kiểm kê và cũng để thu nhặt lại những gì còn có thể cứu vãn,
thuê người phụ dọn dẹp đổ nát.
Bây giờ nghĩ lại, thấy thật buồn, bao nhiêu công sức
cha mẹ suốt một đời hy sinh, gầy dựng, chắt chiu, mong ngày sau có
chút gì để lại cho con cháu, nay bỗng chốc biến thành mây khói. Nhà
ở đổ nát, mà ngay cả dãy nhà bốn căn cho thuê, xinh xắn, nằm gần cầu,
dọc theo bờ sông Phủ Cam, mà ba mạ tôi vừa bỏ bao công sức, tiền của,
xây mới lại, chưa được bao nhiêu lâu, nay cũng thành đống gạch vụn.
Sở dĩ tôi nói: “Bây giờ nghĩ lại…” vì thú thật,
vào thời điểm đó, cái ý nghĩ tuy đơn giản ấy đã không đến “kịp”
trong suy nghĩ còn khá non nớt của tôi. Tôi cũng không nhớ đã nghe một
lời than vãn nào thốt ra từ miệng của ba mạ tôi. Phải chăng nổi đau
đớn của mất mát to lớn quá, mới mẽ quá, để cảm nhận? Cũng có
thể, với niềm tin tôn giáo vững chắc, khi nhìn thấy cảnh tang tóc
cùng khắp, riêng gia đình mình, dù cửa mất nhà tan, nhưng gia đình
còn nguyên vẹn, cám đội ơn trên che chở không hết, giờ đâu nghĩ đến
tiếc nuối của cải vật chất?
Trần Văn Thuận