Không ai nghĩ đó là những ngày cuối cùng của ông Chu nhất là
cái hôm bà Chu được đứa cháu làm bác sĩ ở đâu về chở xe gắn máy vô bệnh viện cắt
bỏ ngón chân hoại tử do tiểu đường, ông Chu như con vật bị thương lồng lộn kêu
gào thảm thiết khi bị khóa trái nhốt trong nhà, mắt dõi theo cái bóng bà Chu gẫy
ngoặt chỗ góc hẻm:
– Làng xóm ơi mở cửa! Ban-Lãng ơi mở cửa! Bà đâu rồi bà ơi?
– Bà đi bệnh viện vài ngày sẽ về. Bác vô nhà nằm nghỉ. Chiều
tối sẽ có con cháu đến thăm.
Mỗi người một câu, nhưng ông Chu điếc đặc đâu có nghe thấy
gì; cũng không chắc nghe được chính mình. Con cháu đâu còn ai. Tuổi ông cỡ đó
thì mấy người con cả cũng đã trên 70 rồi, mấy đứa cháu hầu hết thành nhân chi mỹ
thành khỉ leo cây tứ tán cả.
Ngày dọn về cư xá ông Chu chỉ mới 37 – tuổi thanh niên chín
muồi chồm chồm trung niên, Bắc di cư năm 54, lương nhân viên nhà nước VNCH ổn định,
có gia đình và hai con: bé gái 12 tuổi còn chơi nhảy lò cò, thằng em 10 tuổi đi
học về chỉ lẩn quẩn trong xóm bắn bi tạt lon với lũ con nít cùng cỡ, tuyệt đối
không đánh lộn chửi thề. Ông quán xuyến, bà tảo tần, hai đứa nhỏ có giáo dục.
Gia đình gương mẫu vậy nên ông Chu được cả xóm bầu làm trưởng khóm. Sau đó thì
hai ông bà thừa thắng xông lên sản xuất đều đều thêm 4 đứa nữa, vị chi 3 trai 3
gái.
Ông Chu làm trưởng khóm liên tục 17 năm; sau 1975 vẫn tại vị
thêm 30 năm nữa nhưng với tên gọi khác: tổ trưởng, tức Bác Tổ. Sau khi nghỉ hưu
ở cơ quan nhà nước, ông Chu toàn tâm toàn ý làm tổ trưởng full time. Luật lao động
không có điều khoản giới hạn tuổi tác cho nghề tổ trưởng. Giằng co lắm Ủy Ban
Nhân Dân Phường mới đồng ý cho ông nghỉ ngơi, không phải sáng sáng đóng bộ quần
tây sơ-mi trắng dài tay chân mang xăng-đan lom khom đi bộ đến chốn công đường để
trình tấu lặt vặt. Thời điểm từ quan ông còn vô cùng minh mẫn tuy lúc ấy đã lố
bát tuần.
Lạ là – trừ hai người con đầu có chồng có vợ ra riêng hiện ở
đâu đó bên quận Tân Bình – bốn đứa còn lại phản quốc vượt biên cùng hậu duệ sống
rải năm châu bốn biển, nhưng uy tín tổ trưởng của ông Chu trong bấy nhiêu năm
thăng trầm vẫn cứ vững như bàn thạch, không hề bị quy kết thuộc thành phần gia
đình có người thân bỏ thiên đường Cộng Sản đi liếm gót giày đế quốc ở địa ngục
tư bản:
phần vì không ai đủ hưỡn để nhận trách nhiệm họp tổ hàng
tháng, niêm yết thông cáo đầu hẻm ghi rõ chuyên đề và ngày giờ họp hành, phổ biến
thông tư mới của nhà nước, thu phí vệ sinh khu phố, quyên góp cứu trợ đồng bào
nạn nhân bão lụt hạn hán, động viên quần chúng hỗ trợ lính biển bảo vệ tổ quốc,
khai báo nhân khẩu từng hộ gia đình, chia vui chia buồn từng nhà mọi dịp
hoan-hôn-tang-tế, quản lý người ra kẻ vào, bảo vệ danh hiệu khu phố văn hóa quyết
tâm bài trừ xì ke ma túy đĩ điếm côn đồ, nhắc nhở tổ viên thi hành nghĩa vụ
công dân: đóng thuế nhà đất đúng hạn, bỏ phiếu nghiêm chỉnh trong các kỳ bầu cử,
treo cờ vào những ngày lễ lớn…;
phần vì việc nào bác Tổ làm cũng chu đáo. Chỉ cần đi vòng
vòng trong xóm thổi tu huýt và rao: Mời bà con đi họp, ai nấy đều
răm rắp. Thế mới biết nhà nước XHCN sáng suốt phân bố lao động đúng người đúng
việc. Nhà ai xào xáo lộn xộn Bác Tổ cũng là người phân xử anh minh; trong xóm
vì thế có câu thần chú “méc Bác Tổ” rất linh nghiệm đối với người lớn lẫn
trẻ con:
– Ăn cho hết chén cơm không thôi méc Bác Tổ.
– Nhậu cho cố, méc Bác Tổ thì đừng có trách.
– Hát Karaoke đủ nghe thôi, méc Bác Tổ bây giờ!
– Chạy tới méc Bác Tổ ông Sáu đánh tao xụi giò sặc máu mũi,
mau lên!
Ông Chu luôn luôn có cách giải quyết: thay quần tây sơ-mi
dài tay đàng hoàng, ông sẽ đến tận từng nhà đương sự, buông vài câu lơ phơ
nhưng cực kỳ hiệu quả.
– Này, không được bỏ mứa nhé! Không thì ông đưa lên Phường ngồi
ăn với mấy chú công an đấy.
– Phường hiện có chính sách đưa người nghiện rượu đi cai,
đăng ký sớm, không lại huốt thêm đợt nữa.
– Vặn nhỏ lại. Đóng cửa vui trong nhà thôi. Bác Tổ mà hát om
sòm thì anh em ở đây có thích nghe không nà?
– Biết “nồi da xáo thịt” là cái gì không? Là cái nồi
bằng da của mình, bỏ thịt em mình lên đó xáo. Nghĩ mà xem.
Từ ngày thôi làm tổ trưởng ông Chu có vẻ buồn chán, hàng
ngày chỉ đi tới đi lui trong căn nhà ống có diện tích chưa đầy 50 mét vuông, lẩn
quẩn lặt rau dưới bếp với bà Chu hoặc đứng câu song cửa sắt trước hàng ba lơ
láo ngó ông đi qua bà đi lại. Đó là dạo ông còn tự mình nhúc nhích được.
Mọi người trong xóm đi ngang nhìn thấy ông Chu đứng đó thường
chào hỏi lễ phép, theo thói quen vẫn gọi là Bác Tổ, có khi thêm giới tính Bác Tổ
Trai để phân biệt với Bác Tổ Gái. Người thừa nhiệm còn trẻ, là đảng viên, nhưng
éo le là uy tín khá lu mờ so với người tiền nhiệm. Trong nhà ai có gì ráng chịu,
không thèm méc moi làm chi với cái tay tổ trưởng chỉ nảy mực mà không cầm
cân, các tổ viên tứ-hải-giai-huynh-đệ kháo nhau như vậy.
Hai ông bà già quấn quýt nhau thấy thương. Không quấn quýt
thì làm gì khác được? Bác Tổ Gái cũng đã trên 90, mỗi ngày lọm khọm nấu món kho
món xào cho người bạn đời, tính nhẩm hai cụ đã 75 năm gắn bó, 6 đứa con 20 đứa
cháu. Giờ bọn chúng nó tản ra bốn phương tám hướng chừa lại hai người già, có đứa
thừa lệnh song thân lâu lâu ghé thăm nhưng chân trong chân ngoài dợm chạy, chê
nhà khai nước đái. Tính tình hai ông bà đều khó khăn nên khó thuê người giúp việc.
Đi chợ giùm đã có hàng xóm Ban-Lãng. Nhà bé tẹo, phòng khách trở thành địa bàn
hoạt động của riêng ông, phần còn lại là vùng phi quân sự của bà. Mỗi khi Bác Tổ
Gái đi vệ sinh hay đứng ngồi đâu đó khuất tầm mắt, Bác Tổ Trai đang tĩnh tọa
trước màn hình TV liền kêu thất thanh, đến hàng xóm cách xa bốn năm căn cũng
nghe:
– Bà ơi bà đâu rồi? Bà ơi bà…Bà đâu???
Thỉnh thoảng lại nghe ông vỗ tay:
– Dô ta! Thấy bà rồi! Dô ta! Mừng quá. Nhìn thấy bà rồi!
Có khi lịch sự bất ngờ, giọng nhỏ nhẹ đầy trắc ẩn tri ân:
– Cám ơn bà. Không có bà là tôi chết. Bà cần gì không? Bà cần
gì thì nói với tôi.
Bác Tổ Gái thường khi im re, hoặc hứ, hé lấy
lệ hoặc bực mình nạt:
– Cái gì mà bà ơi bà ơi hoài!
– Cám ơn bà. Bà ơi bà….
Dần dà ông Chu hết di chuyển nổi. Không kiểm soát được việc
bài tiết, ông tiêu tiểu tại chỗ nhưng lần nào cũng khóc kể, với tất cả lòng tự
trọng:
– Thôi rồi, tôi làm ra quần rồi đây bà ơi! Tôi đái rồi.
Dạo sau này, ai tình cờ đi ngang ngó qua cửa sổ sẽ thấy ông
Chu không còn mặc quần nữa. Ông ngồi chành bành trên cái ghế dựa đã bươm, xem
tin tức trên TV, âm thanh được vặn hết cỡ khiến cả xóm thôi không cần đến truyền
hình vì đã bão hòa với truyền thanh. Cũng không chắc thị lực ông già còn đủ tốt
để thấy hình được truyền, có lẽ chỉ là những vệt nhòe đang chuyển động trên màn
ảnh nhỏ.
Thử tưởng tượng một cụ bà 90 xoay trở khó nhọc phải nhờ đến
khung tập đi dành cho người già, vậy nhưng suốt ngày cứ phải loay hoay làm vệ
sinh mỗi lần ông vãi bậy. Những lúc đó ông thường cảm thán:
– Nhà có hai người già….Cám ơn bà. Không có bà là tôi chết.
Lần nào cũng không quên thêm: Bà cần gì không? Bà cần
gì thì nói với tôi. Bác Tổ Gái quạu quọ nạt: Không cần!
May, ông già đâu có nghe ra giọng phũ phàng. Bà cần gì thì nói với
tôi có vẻ như chỉ là âm vọng từ cái thuở ông còn được việc. Nói cà
rỡn mà chơi, lỡ Bác Tổ Gái bỗng nhiên cắc cớ cho biết mình đang cần ra ngoài
mót chút nắng, liệu ông có đủ sức để giúp bà làm một vòng xóm, cái xóm mà họ đã
biết rõ từng vạt xi măng tráng hẻm, từng đứa trẻ dần trưởng thành, từng hộ gia
đình dọn đến dọn đi.
Cư dân của 34 căn nhà dù muốn dù không đều chứng kiến ngày
cùng của ông Chu. Ai cũng lắc đầu ái ngại, đồng thời không thể không nghĩ đến
phận mình một ngày nào. Tóm lại là chẳng ai muốn sống lâu như Bác Tổ để cuối
cùng trở thành khổ nạn của chính mình và gánh nặng cho người bạn đời vốn cũng
đang phải trả nợ trầm luân ở tuổi 90. Các cặp vợ chồng xồn xồn nhìn nhau xét
nét tự hỏi liệu mai mốt đến phiên mình… Các bạn trẻ lăn tăn về chương cuối của
một cuộc hôn nhân viên mãn. Người ta vẫn thường chúc cô dâu chú rể trăm năm hạnh
phúc mà không có ý niệm gì về số liệu. Một trăm cho một đời người không phải chỉ
là chuyện đếm cho đủ rồi cười khà khà đắc thắng vì đã đạt chỉ tiêu.
Đêm trước ngày ông Chu qua đời, nửa đêm hàng xóm vẫn còn
nghe ông già kêu bà …bà… Mấy chữ còn lại đã tuột mất chỉ còn một
chữ bà duy nhất được kéo ra rồi đứt, rồi lại kéo và đứt. Âm lượng
ngúm dần. Đến trưa hôm sau thì không còn nghe tiếng ông nữa. Gia đình nhanh
chóng lo hậu sự. Nhân viên dịch vụ tang lễ của trại hòm Tân Lập ngay lập tức có
mặt với dàn kèn đồng thổi tò te bài Cát Bụi của Trịnh Công Sơn
và Ơn Cha của Y Vân. Cả xóm cầm bằng sẽ bị tra tấn lỗ tai ít
ra là hai ba ngày nữa và sẵn sàng chấp nhận như lâu nay vốn đã, bởi đời người
ai rồi cũng chỉ có một lần cung nghinh nhã nhạc, nhưng không, ngay chiều hôm đó
người ta di quan ông Chu sang Vãng Sanh Đường của chùa Vĩnh Nghiêm để dễ dàng
cho việc phúng viếng. Nhà khai nước đái quá mà.
Không nghe Bác Tổ Gái khóc kể hay thậm chí sụt sùi. Dường
như mọi thứ tình cảm trong lòng bà Chu đã chín rục, dễ chừng đã rụng, giờ chỉ cần
nhặt lên ủ, nhốt trong hũ lâu lâu lấy ra ngửi ngửi coi lên men đến đâu. Ai
trong chúng ta rồi sẽ được người bạn đời của mình triền miên réo gọi cho đến giờ
lâm tử?
Ngày đưa quan tài ông Chu từ chùa Vĩnh Nghiêm về lò thiêu
Bình Hưng Hòa, bà Chu thay bộ quần áo sậm màu rồi được một người họ hàng dìu từ
trong nhà ra đầu hẻm cư xá để chờ xe tang đi ngang. 7 giờ sáng, xe dừng lại
đúng địa điểm dự kiến, kèn trống lại trổi lên cho ông Chu tạm biệt bà Chu cùng
xóm nhỏ. Bà con cô bác thay vì ngó cái hòm, lại ngậm ngùi nhìn bà Chu giơ bàn
tay đã trổ đồi mồi lên vẫy vẫy khi xe lăn bánh. Trong lòng Bác Tổ Gái lúc ấy ì
ào bão biển, hay mọi thứ đang chìm chìm mông lung chờ lúc bà còn lại một mình mới
ùn ùn trồi lên?
Dẫu gì đây cũng là một cái chết… truyền thống, đoạn kết của
một cuộc hôn nhân lâu bền với tang lễ được cử hành theo đúng tập tục, có đích
tôn đích tử – dù thành nhân chi mỹ hay thành khỉ leo cây – cũng giày cỏ áo xô gậy
trúc di ảnh. Phúc đức là được chết già, không bệnh tật, không dịch vật – coi
như qua đời thành công. Còn hơn là chết đơn độc vì COVID, không người
thân kề cận phút lâm chung, không đám ma đám rước, thân xác hoặc cháy dở do thiếu
củi thiêu hoặc bị thả trôi sông đến ngày nào đó giạt vào bờ biển lạ như một tử
thi vô thừa nhận, thậm chí bất hợp pháp bởi không có thị thực của chính quyền sở
tại.