Những người sống ở Sài Gòn nói họ tuy đã quen với việc hàng
năm, đến ngày 30 Tháng Tư, nhà cầm quyền lại cho trương khắp nơi các bích
chương, biểu ngữ mừng ngày giải phóng miền Nam, nhưng quen, không có nghĩa là
không có những phản ứng nhất định, dù đã gần nửa thế kỷ đi qua.
Việc xác định là “giải phóng”, có lúc này lúc khác. Tùy theo
cảm quan của người đứng đầu bộ máy nhà nước và thời thế. Đã có lúc cả miền Nam
rộ lên niềm vui khó tả khi đọc được những dòng tâm tình của ông Võ Văn Kiệt, về
ngày 30 Tháng Tư là có “triệu người vui, cũng có triệu người buồn”. Giai đoạn
đó, những ngôn luận nhận thức khác lạ đó, mô tả được một tâm trạng có thật dai
dẵng trong dân chúng: Miền Nam là của những người xác nhận mình thua cuộc,
nhưng không nhận là mình được giải phóng.
Điểm lại lịch sử của nửa thế kỷ sau 30 Tháng Tư 1975, về ý nghĩa “giải phóng”, không thể không nhắc đến chuyện của diễn viên điện ảnh Đơn Dương.
Những ngày 30 Tháng Tư này, lại nhớ một biến động khó quên của
điện ảnh Việt Nam, với diễn viên Đơn Dương, người đang đặt một bàn chân vào
Hollywood, được chú ý trước cả Hồng Châu, Quan Kế Huy… Cũng từ một bộ phim chiến
tranh Việt Nam do Mel Gibson đạo diễn, cách nhìn cuộc chiến tranh giải phóng bằng
ánh mắt nhân bản trung dung, đã bị tấn công không thương tiếc từ hệ thống truyền
thông nhà nước. Vào thời điểm nhạy cảm đó, hai bộ phim Đơn Dương tham gia là
Green Dragon (2001 – cùng với sự tham gia của Patrick Swayze and Forest
Whitaker, và We Are Soldiers(2002 – cùng Mel Gibson) là cú sốc lớn, cho dù ngôn
ngữ điện ảnh mô tả nhiều chiều, nhiều bối cảnh tâm lý chứ không nhằm mục đích
“chống phá” Việt Nam. Khác với câu nói của viên cựu quân nhân Đại Hàn về việc
đã “giết hơn 100 việt cộng” trong phim Ba Chị Em, chỉ bị ngừng chiếu, thì chính
vẻ tư lự, cảm thán về mất mát hoàn toàn có thể hiểu được của người chiến thắng,
mà Đơn Dương thủ vai viên chỉ huy Nguyễn Hữu An vào phút cuối của We Are
Soldiers ở thung lũng D’rang, là vấn đề bị chỉ trích dữ dội.
Khó tả được cảm giác của hãng Paramount khi đón nhận hàng loạt
các lời tấn công vào phim We Are Soldiers và cá nhân ông Đơn Dương. Năm 2002,
thư liên lạc và thông qua Tòa Đại Sứ Mỹ ở Việt Nam được một quan chức không cho
biết tên ở Sài Gòn xác nhận rằng Đơn Dương không bị giam giữ hay bị bắt. nhưng
Bộ văn hóa đã ra lệnh cấm ông Dương rời khỏi đất nước, và bị cấm diễn xuất ít
nhất trong năm năm. Nhưng quan trọng là số phận của ông Dương vẫn treo, chưa được
định đoạt.
Báo chí lúc đó gọi Đơn Dương là “phản quốc”, “tham đồng
đô-la bán lịch sử đất nước”… Nói chung là những ngôn ngữ vô cùng nặng nề như một
cuộc đại thạch hình, mà nếu sự kiện ở những năm 1950 hay 1960 tại Miền Bắc, Đơn
dương sẽ phải bị bắn, hoặc ngồi tù không có ngày thấy ánh sáng. Trong một cuộc
phỏng vấn với AP, Đơn Duong cho biết ông bất ngờ trước phản ứng chỉ trích dữ dội,
và đã công khai hứa rằng quyết định không tham gia thêm bất kỳ vai diễn nào
trong các bộ phim nước ngoài về chiến tranh Việt Nam. Nhưng khi được hỏi cảm
nghĩ Về việc đã tham gia những bộ phim này, ông Dương nói rằng hãnh diện vì đã
được sống trong thế giới của Hollywood.
Sự kiện Đơn Dương bị chỉ trích ở Việt Nam bùng nổ, Gibson,
Swayze và Whitaker cùng tham gia vào một chiến dịch viết thư cho Bộ Ngoại
giao, cùng với những người khác bao gồm nhà làm phim Randall Wallace, Harvey
Keitel và Ken Brecher, giám đốc điều hành của Viện Sundance, Thư đang được gửi
tới Đại sứ Hoa Kỳ Raymond Burghardt cũng như các quan chức Việt Nam. Wallace
đã viết
cho Burghardt, nhờ giải thích với Hà Nội rằng “Đơn Dương đã khắc họa một sĩ
quan yêu thương và chăm sóc những người lính của mình, người khôn ngoan và dữ dội
trong trận chiến… và người cuối cùng thậm chí còn nhạy bén hơn các nhà lãnh đạo
của chính phủ Mỹ, trong đó ông (viên chỉ huy Bắc Việt) nhận ra rằng việc tiếp tục
nỗ lực quân sự của Mỹ ở Việt Nam sẽ chỉ tạo ra một bi kịch lớn hơn trong những
sinh mạng đã mất. Trong con mắt của những người không phải là người Việt Nam,
Đơn Dương đã đại diện cho người dân của mình theo cách mang lại cho họ danh dự
và sự tôn trọng.”
Cả trong vai Trần Tài (Green Dragon) và Nguyễn Hữu An (We
Are Soldires), vấn đề của ông Đơn Dương là đã thể hiện quan điểm của các nhà
làm phim quốc tế về cuộc chiến tranh Việt Nam, mà không có ý nghĩa “giải
phóng”. Cả 2 bộ phim. Mà Đơn Dương thủ vai đều thể hiện sự mất mát của con người
Việt Nam. Từ chỗ. một người di tản vì cuộc chiến tranh, Bắt đầu cuộc đời mới của
mình. Tại trại tỵ nạn Camp Pendleton của căn cứ hải quân Hoa Kỳ, cho đến hình ảnh
người chỉ huy Bắc Việt chiến thắng, giành được ngọn đồi nhưng mang trong mình một
suy nghĩ về thắng thua vô nghĩa trước sự mất mát quá nhiều của đồng đội. Ý
nghĩa chính trị giải phóng nhạt nhòa trong thời khắc ấy, như câu thơ của Nguyễn
Duy: “Mọi cuộc chiến tranh, Phe nào thắng thì nhân dân đều bại”.
(Đá Ơi)
Có thể Đơn Dương không gặp thời. Vì nếu như bộ phim được sản
xuất và ra mắt năm 2005, Vào thời điểm mà ông cố thủ tướng Võ Văn Kiệt phát biểu
trong một bài phỏng vấn, nhân 30 năm ngày 30 Tháng Tư, ắt cuộc đời và của diễn
viên Đơn Dương biết đâu lại càng lóe sáng. Lúc đó, ông Kiệt nói, rõ ràng
hơn cả những vai diễn của Đơn Dương thể hiện, rằng “một sự kiện liên quan đến
chiến tranh khi nhắc lại có hàng triệu người vui mà cũng có hàng triệu người buồn.
Đó là một vết thương chung của dân tộc cần được giữ lành thay vì lại tiếp tục
làm nó thêm rỉ máu” (Tuần
báo Quốc Tế, 31 Tháng Ba 2005).
Rõ ràng trong lịch sử, đã có lúc, quan điểm chân thành về một
quốc gia cần phải được chữa lành vết thương nội tại từ chiến tranh, và giải
phóng cả quan điểm thế đứng trên của những người chiến thắng, là có thật. Tiếc
thay, những điều đó lại luôn chìm lắng giữa những rộn ràng không thật.
Tuấn Khanh
————–
Tham khảo thêm, chuyển dịch từ hồ sơ Wikileaks
Sau đợt đầu báo chí tấn công dữ dội, không chỉ dùng pháp luật
áp chế, Đơn Dương còn bị sách nhiễu như trong một cuộc đấu tố thường xuyên ở xã
hội: “Ông Dương bị quấy nhiễu mỗi tối với điện thoại của an ninh gọi tới, bị
theo dõi mỗi khi ra khỏi nhà, và cho biết bạn bè và hàng xóm lo sợ tránh né.
Ông bị công an thẩm vấn hôm 2 tháng Mười 2022, và tỏ vẻ lo sợ là sắp bị bắt
giam, mặc dù lý do để bắt thì không ai nói rõ cho ông trừ những điều đã nói ở
trên. Ông đã bị gọi là ‘kẻ phản bội’ trong báo chí của nhà nước và của đảng Cộng
sản.”
Nửa năm sau, Đơn Dương được xuất ngoại với vợ con. Cùng đi với
gia đình ra Tân Sơn Nhất là nhân viên tòa tổng lãnh sự, công điện ngày 10
tháng 4, 2003, ghi với tựa đề nặng nề: “Sách nhiễu tới phút chót.”
Đó là sau khi Đơn Dương đã bị sách nhiễu, các con ông cũng bị
làm khó dễ trong trường, và côn đồ tới phá nhà hàng của gia đình ông, bản công
điện viết. Ông bị gọi lên công an phường, ông khất, rồi cuối cùng ra đi mà
không lên gặp công an.
Khác với nhiều lần trước, lần này hải quan không cho nhân
viên tòa tổng lãnh sự vào trong để tiễn người. Khi được hỏi tại sao thì mỗi người
trả lời mỗi khác. Có người bảo nhân viên lãnh sự “chỉ được tiễn công dân nước họ.”
Có người bảo “khu vực hải quan không cho phép nhân viên lãnh sự vào” – trong
khi thật ra thì “mới thứ Sáu tuần trước thì không có luật đó.” Rồi khu vực công
an cửa khẩu cũng được cho là không cho phép vào, và “một lần nữa, mới thứ Sáu
tuần trước thì không như thế.”Một người quay phim, tự xưng là của Truyền hình
Việt Nam, theo quay phim gia đình Đơn Dương rời nước, đi qua luôn chặng kiểm
soát.
Đến chỗ khai hải quan, nhân viên tòa tổng lãnh sự bị chặn lại.
Lý do này nọ được đưa ra. Nhân viên tổng lãnh sự quán bảo, mới thứ Sáu tuần trước
chúng tôi không bị chặn, thì hải quan chỉ nhún vai lắc đầu bảo, luật trên thay
đổi rồi.
Hai người cấp trên tới, nhưng thay vì giải quyết cho lãnh sự
vào trong, một trong hai người bắt đầu khám xét hành lý gia đình Đơn Dương “một
cách chậm chạp và ôi trời ơi kỹ càng làm sao,” công điện viết. Một nhân viên
lãnh sự Úc cũng tới và cũng không được cho vào trong.
Tuy không được vào, nhưng nhân viên lãnh sự cũng đứng nhìn
và thấy gia đình bị đưa vào một phòng nhỏ, nơi có ít nhất 8 viên hải quan bu
vào lục soát hành lý gồm 6 va li và 3 thùng. Họ lục từng món hàng. “Họ chụp nhiều
tấm ảnh của đồ đạc, quần lót bị giơ lên soi ánh đèn.”
Sau một giờ lục soát, hải quan cho phép gia đình gói đồ lại,
lại chạy qua X-ray, rồi đẩy đi. Đơn Dương được đưa qua một quày khác, rồi bị bắt
phải ký một xấp giấy tờ – “phải hứa hẹn cái gì thì chúng tôi không biết,” công
điện viết.
Hãng EVA đã phải giữ máy bay lại trong 15 phút để chờ gia
đình Đơn Dương. “Qua cửa kính, nhân viên lãnh sự quan sát thấy gia đình đi qua
được hành lang xuất phát, đi thẳng tới cầu qua máy bay. Người ‘quay phim’ tiếp
tục quay cho tới phút chót, trong khi một đám đông nhân viên an ninh đứng đầy
phòng đợi của người đi.”
Chuyến bay cất cánh lúc 3:15, với gia đình Đơn Dương trên
đó, bay qua California với bà Suzie Bùi, chị ông. Công điện viết, ông
Dương bị chính quyền “xua đuổi ra khỏi quê hương mình.”