22 October 2024

CÁI CHẾT (2) - James Joyce | Trịnh Y Thư dịch & giới thiệu

Xem phần (1)

(Tiếp theo và hết)

Không khí buổi sáng lạnh buốt ùa vào gian sảnh nơi họ đang đứng khiến dì Kate phải nói vọng ra:
    “Ai đó đóng cửa lại giùm. Bà Malins sẽ chết vì lạnh đấy.”
    “Ông Browne đang ở ngoài đó, thưa dì Kate,” Mary Jane nói.
    “Cái ông Browne này thì có mặt ở khắp mọi nơi,” dì Kate hạ giọng nói.
    Giọng bà làm Mary Jane phải bật lên cười.
    “Thật đấy, dì ạ,” cô nói một cách tinh quái, “ông ta lúc nào cũng quan tâm sẵn lòng giúp đỡ mọi người.”
    “Suốt mùa lễ Giáng Sinh ông ấy ăn nằm ở đây như bị nhiễm hơi ga,” dì Kate vẫn giữ giọng nói như cũ.
    Lần này bà cười như pha trò rồi nói nhanh:
    “Nhưng cháu ra bảo ông ta vào nhà đi, và đóng cửa lại. Dì cầu xin Chúa là ông ta không nghe dì nói gì.”
    Đúng lúc đó cửa hành lang mở ra và ông Browne từ ngưỡng cửa bước vào, cười như thể tim ông vỡ tan. Ông mặc chiếc áo khoác dài màu xanh lục với cổ tay áo và cổ áo bắt chước kiểu Astrakhan [22] và đội trên đầu một chiếc mũ lông hình bầu dục. Ông giơ tay chỉ về phía bến cảng phủ đầy tuyết, nơi phát ra những tiếng huýt sáo chói tai kéo dài.
    “Teddy đang gọi tất cả các xe ngựa ở Dublin đến đón mọi người ra về,” ông vừa cười vừa nói.
    Gabriel từ phòng gửi áo choàng bước ra, loay hoay vừa mặc áo vừa nhìn quanh quất gian sảnh, hỏi:
    “Gretta chưa xuống à?”
    “Gabriel, cô ấy đang mặc quần áo,” dì Kate bảo anh.
    “Ai đang chơi nhạc trên đó thế?” Gabriel hỏi.
    “Không có ai cả. Họ về hết rồi.”
    “Ồ không, dì Kate,” Mary Jane nói. “Ông Bartell D’Arcy và cô O’Callaghan vẫn chưa về.”
    “Có người đang gõ piano,” Gabriel nói.
    Mary Jane liếc nhìn Gabriel và ông Browne, cô rùng mình, nói:
    “Chỉ cần nhìn thấy anh Gabriel và ông Browne áo quần dày cộm như vầy là em đã cảm thấy lạnh sống lưng rồi. Nếu là em thì chắc em không thể về nhà vào giờ này được.”

    Ông Browne đáp lời cô:

    “Vào giây phút này, đối với tôi chẳng có gì thú vị bằng một cuộc đi dạo ở vùng thôn dã hoặc chạy xe thật nhanh với một con ngựa chiến.”
    “Ở nhà chúng tôi thuở xưa cũng có một con ngựa và một chiếc xe rất tốt,” dì Julia buồn bã nói.
    “Johhny, không-bao-giờ-quên,” Mary Jane cười nói.
    Dì Kate và Gabriel cũng cười theo.
    “Sao vậy, Johnny có cái gì tuyệt vời thế?” ông Browne hỏi.
    “Thuở đó ông của chúng tôi, tên là Patrick Morkan,” Gabriel giải thích, “ông cụ thường được biết đến trong những năm cuối đời như là một cụ già khả kính, nhưng thời trẻ cụ làm thợ nấu keo.”
    “Ồ, Gabriel này,” dì Kate ngắt lời Gabriel vừa nói vừa cười, “ông cụ làm chủ một xưởng máy xay bột, chứ không phải thợ nấu keo.”
    “Ừm, keo hay bột gì đó,” Gabriel nói, “ông cụ có một con ngựa tên là Johnny, và Johnny từng làm việc trong xưởng của ông cụ, ngày ngày nó đi vòng quanh để lái cái cối xay. Mọi chuyện bình thường êm thắm cả; nhưng chuyện bi hài về Johnny bỗng xảy ra. Một ngày đẹp trời, ông cụ bỗng nảy ra ý định muốn có một chiếc xe ngựa oai vệ để đi tham dự buổi diễu hành ngoài công viên.”
    “Xin Chúa thương xót linh hồn ông cụ,” dì Kate nói giọng đầy vẻ xót thương thông cảm.
    “Amen,” Gabriel nói tiếp. “Thế là ông cụ thắng dây cương con ngựa Johnny lắp vào xe và đội chiếc mũ đẹp nhất cùng chiếc áo có cổ áo nổi bật nhất rồi chễm chệ đánh chiếc xe ra khỏi khu nhà từ bao đời tổ tiên để lại tọa lạc đâu đó gần Back Lane, tôi nghĩ vậy.”
    Cách kể chuyện dí dỏm của Gabriel khiến mọi người đều cười, kể cả bà Malins, dì Kate nói thêm vào:
    “Ô, Gabriel, ông cụ đâu có sống ở Back Lane. Chỉ có nhà máy ở đó thôi.”
    “Ra khỏi ngôi nhà của tổ tiên,” Gabriel kể tiếp, “ông cụ ra roi oai vệ cùng Johnny bon bon chạy. Mọi chuyện diễn ra tốt đẹp cho đến khi Johnny trông thấy tượng đài Vua Billy [23]: và chẳng hiểu vì yêu con ngựa Vua Billy đang cưỡi hay nghĩ rằng đã trở lại nhà máy, thế là nó cứ nhẩn nha đi vòng vòng quanh pho tượng.”
    Với đôi ủng đi tuyết đã xỏ vào chân, Gabriel làm một vòng quanh gian sảnh giữa tiếng cười vang của những người khác.
    “Chiếc xe ngựa cứ thế chở ông cụ đi vòng quanh tượng đài Vua Billy,” Gabriel nói tiếp, “và ông cụ, một ông cụ có tính khoa trương nặng, vô cùng tức giận. ‘Đi tiếp đi chứ, thưa ông! Ý ông là thế nào, hử? Johnny! Johnny! Quả là chuyện phi thường! Thật không thể hiểu được con ngựa!’”
    Tiếng cười rộn rã vang mãi sau khi Gabriel kể và diễn lại cái sự kiện buồn cười đó, nó chỉ lắng xuống khi có tiếng gõ cửa gấp rút. Mary Jane chạy ra mở cửa cho ông Freddy Malins vào. Với chiếc mũ lật ngược trên đầu và đôi vai gù lên vì lạnh, ông Freddy Malins đứng thở hổn hển, như muốn bốc hơi sau khi gắng hết sức đứng ngoài lạnh gọi xe ngựa cho mọi người.
    “Tôi chỉ gọi được đúng một chiếc xe mà thôi,” ông nói.
    “Ồ, không sao, chúng tôi sẽ tìm xe khác dọc bến cảng,” Gabriel bảo ông.
    “Ừ,” dì Kate bảo. “Tốt nhất đừng để bà Malins đứng trước luồng gió lạnh.”
    Ông Freddy Malins và ông Browne cùng hiệp lực đỡ bà Malins bước xuống bậc thềm phía trước nhà, và sau nhiều phen lúng túng vật lộn với bà già, hai người mới nâng được bà lên đưa vào trong xe. Freddy Malins leo theo sau và phải mất một lúc lâu nữa để giúp bà ngồi vào ghế, ông Browne đứng dưới đường luôn mồm bảo làm này làm nọ. Cuối cùng bà Malins ổn định chỗ ngồi thoải mái và ông Freddy Malins mời ông Browne lên xe. Lại một hồi lâu bàn tính đủ thứ chuyện lộn xộn nữa, và cuối cùng ông Browne trèo lên xe. Người xà-ích trải tấm khăn dày lên đùi mình rồi cúi xuống hỏi địa chỉ nơi đến. Ông Freddy Malins và ông Browne thò đầu ra ngoài cửa sổ chiếc xe ngựa, tranh nhau chỉ đường, nhưng mỗi ông chỉ một đường khác nhau, hai ông cứ thế nói, càng lúc càng rối mù. Cái khó là không biết nên thả ông Browne ở đâu dọc đường. Dì Kate, dì Julia và Mary Jane đứng từ ngưỡng cửa cũng góp ý thêm vào, nhưng toàn những lời trái chiều, mâu thuẫn, ba người vừa nói vừa cười rũ rượi. Về phần Freddy Malins, ông cười đến nỗi không nói thành tiếng. Mỗi lần có cơn gió mạnh thổi tới ông sợ bay mất mũ nên thụt đầu vào xe, nhưng lại thò ra ngay, ông thuật lại cho mẹ nghe cuộc thảo luận đang diễn ra tưng bừng như thế nào, cho đến khi cuối cùng ông Browne hét lên với người xà-ích đang ngơ ngác không hiểu chuyện gì mà mọi người cười ầm ỹ như vậy:
    “Đi đi! Ông ơi, ông biết trường Cao đẳng Trinity không?”
    “Vâng, thưa ngài, tôi biết,” người xà-ích nói.
    Ông Browne nói: “Được rồi, ông cứ thẳng đường đâm vào cổng trường Trinity cho tôi, rồi chúng tôi sẽ chỉ cho ông biết nơi nào cần đến. Bây giờ ông đã hiểu chưa?”
    “Vâng, đã hiểu, thưa ngài.”
    “Hãy bay như chim đến trường Trinity giùm tôi!”
    “Đúng vậy, thưa ngài.”
    Người xà-ích quất roi con ngựa và chiếc xe lóc cóc chuyển bánh dọc theo bến cảng giữa những tràng cười và lời chào tạm biệt.
    Gabriel không theo mọi người ra cửa. Anh đứng trong một góc tối gian sảnh nhìn lên cầu thang. Anh thấy một phụ nữ đứng trên lầu gần thang gác đi xuống, cũng ở trong bóng tối. Anh không thấy rõ khuôn mặt cô nhưng anh có thể nhìn thấy những mảng màu đất nung và hồng cá hồi trên chiếc váy cô đang mặc mà bóng tối khiến nó trông như hai màu đen trắng. Chính là vợ anh chứ không ai khác. Cô đứng dựa vào lan can và đang lắng nghe cái gì đó. Gabriel ngạc nhiên thấy cô im lặng, anh cũng cố lắng nghe nó là tiếng gì, nhưng anh chẳng nghe được gì nhiều ngoài tiếng cười nói inh ỏi từ bậc thềm ngoài cửa trước vọng vào. Hình như là tiếng piano, vài hợp âm đàn dạo vẳng lại, và giọng hát rời rạc của một người đàn ông.
    Anh đứng yên trong bóng tối của gian sảnh, cố lắng nghe tiếng  hát và ngước nhìn vợ mình. Có cái gì duyên dáng và bí ẩn trong tư thế của cô như thể cô là biểu tượng cái gì đó. Anh tự hỏi người phụ nữ đứng trong bóng tối trên cầu thang, nghe tiếng nhạc xa xăm, là biểu tượng của điều gì. Nếu anh là họa sĩ anh sẽ vẽ cô trong tư thế đó. Chiếc mũ nỉ màu xanh lục của cô làm nổi bật mái tóc màu nâu đồng trong bóng tối và trên chiếc váy những mảng sẫm màu làm nổi bật những mảng sáng. “Tiếng nhạc xa vời,” anh sẽ đặt tên cho bức tranh của anh như thế nếu anh là họa sĩ.
    Cửa ra vào được khép lại; dì Kate, dì Julia và Mary Jane cùng bước vào sảnh, miệng vẫn chưa dứt tiếng cười.
    “Chà, cái ông Freddy này thật là tệ khủng khiếp.” Mary Jane nói.
    Gabriel không nói gì mà chỉ tay lên cầu thang về phía vợ anh đang đứng. Cửa ra vào đã đóng, giọng hát và tiếng đàn piano nghe rõ hơn. Gabriel giơ tay ra hiệu cho ba người kia im lặng. Khúc hát hình như là một bài cổ ca của Ireland và ca sĩ có vẻ ngập ngừng, không mấy chắc về cả ca từ lẫn giọng hát của mình. Vì khoảng cách từ xa vẳng lại và do giọng khản đục của người hát, âm điệu bài hát nghe bi cảm, não nề, mơ hồ diễn tả câu hát với những lời lẽ bày tỏ nỗi đau buồn, thương cảm:


O, the rain falls on my heavy locks
And the dew wets my skin,
My babe lies cold...

“Ô,” Mary Jane kêu lên. “Đấy chính là ông Bartell D’Arcy đang hát, ông ấy suốt buổi không chịu hát. Ồ, em sẽ bắt ông ấy hát một bài trước khi ra khỏi đây.”
    “Ô, Mary Jane, cháu yêu cầu ông ta hát đi.” dì Kate nói.
    Mary Jane bỏ mọi người chạy vội tới cầu thang, nhưng trước khi cô tới đó, tiếng hát và tiếng đàn đột nhiên im bặt.
    “Ồ, thật đáng tiếc!” cô kêu lên. “Chị Gretta ơi, ông ấy có xuống đây không?”
    Gabriel nghe vợ trả lời có và thấy cô đi xuống phía họ. Đi sau cô vài bước là ông Bartell D’Arcy và cô O’Callaghan.
    “Ô, ông D’Arcy,” Mary Jane kêu lên, “sao ông lại ngưng hát như thế trong khi tất cả chúng tôi đang say sưa lắng nghe ông!”
    “Suốt tối nay tôi năn nỉ ông ấy hát,” cô O’Callaghan nói, “cả bà Conroy cũng nói vào nữa, nhưng ông nói ông bị cảm nặng và không thể hát được.”
    “Ô, ông D’Arcy,” dì Kate nói, “ông chỉ khéo bịa chuyện để thoái thác chứ gì.”
    “Quý vị không thấy giọng tôi khàn như con quạ sao?” Ông D’Arcy cộc lốc trả lời.
    Ông đi vội vào phòng gửi áo choàng lấy áo mặc. Mọi người ai nấy sửng sốt trước cách nói năng không mấy tao nhã của ông nên đứng lặng im, không biết nói gì. Dì Kate cau mày ra hiệu cho những người khác đừng nói gì thêm. Ông D’Arcy đứng đó quấn khăn quàng cổ cẩn thận, cau mày.
    “Rõ là vì thời tiết,” dì Julia nói sau một lúc im lặng.
    “Đúng vậy, ai cũng bị cảm lạnh,” dì Kate nói liền tiếp theo, “tất cả mọi người.”
    “Người ta bảo là,” Mary Jane nói, “đã ba mươi năm rồi chúng ta mới có nhiều tuyết như thế này; sáng nay em đọc báo thấy nói rằng tuyết đang phủ kín khắp Ireland.”
    “Tôi thích cảnh tuyết rơi,” dì Julia nói giọng buồn buồn.
    “Tôi cũng thế,” cô O’Callaghan nói, “tôi nghĩ Giáng Sinh không bao giờ thực sự là Giáng Sinh trừ phi chúng ta có tuyết trên mặt đất.”
    “Nhưng ông D’Arcy đáng thương thì không thích tuyết,” dì Kate mỉm cười nói.
    Ông D’Arcy từ phòng gửi áo choàng bước ra, cổ quấn khăn và áo cài khuy kín mít, với giọng nói như ân hận về thái độ thiếu lịch sự của mình ban nãy, ông kể chuyện ông bị cảm lạnh như thế nào. Mọi người lại thi nhau khuyên giải, an ủi ông, nói thật đáng tiếc và khuyên ông nên hết sức cẩn thận với cổ họng của mình khi ở ngoài trời ban đêm. Gabriel nhìn vợ mình, cô không tham gia vào cuộc trò chuyện của mọi người. Cô đứng ngay dưới ánh đèn quạt trần bụi bám, ánh đèn ga trong nhà giọi sáng mái tóc màu đồng sẫm của cô mà anh thấy cô sấy khô trên ngọn lửa vài ngày trước. Cô vẫn giữ thái độ tư lự và hình như cô chẳng màng gì đến chuyện mọi người đang nói xung quanh. Cuối cùng, cô quay mặt về phía họ và Gabriel thấy má cô ửng hồng, đôi mắt long lanh sáng. Một niềm vui chợt dâng lên trong lòng anh.
    “Ông D’Arcy,” cô nói, “tựa bài hát ông vừa hát là gì vậy?”
    “Cô gái làng Aughrim,” ông D’Arcy đáp lời cô, “nhưng tôi không nhớ rõ lắm. Tại sao? Cô biết bài hát đó chăng?”
    “Cô gái làng Aughrim,” cô lặp lại. “Thế mà tôi cố nhớ mãi không ra.”
    “Bài hát nghe thật hay,” Mary Jane nói. “Thật đáng tiếc tối nay giọng ông không được khỏe.”
    “Này, Mary Jane,” dì Kate nói, “cháu đừng làm phiền ông D’Arcy nữa nhé. Ông đang khó chịu trong người, đừng làm ông khó chịu thêm.”
    Thấy tất cả đã sẵn sàng ra về, bà đưa họ ra cửa và nói lời tạm biệt.
    “Chào dì Kate, cảm ơn dì đã cho chúng cháu một buổi tối vui vẻ.”
    “Chào Gabriel. Chào Gretta!”
    “Chào dì Kate, cảm ơn dì rất nhiều. Chào dì Julia.”
    “Ồ, chào Gretta, nãy giờ dì không thấy cháu đâu.”
    “Chào ông D’Arcy. Chào cô O’Callaghan.”
    “Chào bà Morkan.”
    “Chào lần nữa.”
    “Chào tất cả mọi người. Về nhà an toàn nhé.”
    “Xin chào. Xin chào.”
    Trời vẫn chưa sáng hẳn. Ánh sáng vàng vọt buồn tẻ bao phủ lên những ngôi nhà và dòng sông; bầu trời hình như hạ thấp xuống. Dưới chân bùn nhão nhoẹt; chỉ có những mảng tuyết trắng bám trên mái nhà, trên bờ kè bến cảng. Những ngọn đèn đường vẫn cháy lù mù trong bầu không khí u ám và bên kia sông, cung điện Four Courts vươn lên giữa nền trời nằng nặng như mang vẻ gì đầy đe dọa.
    Cô đi trước anh, song hàng với ông Bartell D’Arcy, đôi giày bọc trong chiếc túi màu nâu kẹp dưới nách, hai tay giữ cho chiếc váy không lấm bùn. Dáng điệu cô không còn nét duyên dáng như lúc ở trong nhà, nhưng đôi mắt Gabriel vẫn sáng ngời hạnh phúc. Máu chảy mạnh trong huyết quản anh; những suy nghĩ náo loạn trong trí não anh, hãnh diện, vui tươi, dịu dàng, dũng cảm.
    Cô nhẹ nhàng bước đi trước mặt anh, dáng người thon cao đến nỗi anh như muốn chạy theo cô mà không gây tiếng động nào chỉ để nắm vai cô và nói điều gì đó vừa ngốc nghếch vừa trìu mến vào tai cô. Trông cô có vẻ yếu đuối làm sao, anh cảm thấy nỗi khao khát được ôm ấp vỗ về cô trước điều gì đó hung hiểm chỉ để sau đó ở một mình với cô. Những khoảnh khắc bí mật trong cuộc sống chung bao năm qua bỗng hiện về như những vì sao trong ký ức anh. Một chiếc phong bì trên có hình hoa hướng dương nằm bên cạnh tách trà buổi sớm và anh lấy tay vuốt ve nó. Những con chim hót líu lo trong đám thường xuân và tấm rèm cửa chợp chờn ánh nắng lung linh dọc theo sàn nhà: anh không thể nuốt trôi bữa ăn vì niềm sung sướng làm anh nghẹn. Họ đứng trên một sân ga đông người và anh đặt tấm vé tàu vào găng tay ấm áp của cô. Anh đứng cạnh cô trong giá lạnh, nhìn qua khung cửa sổ lưới sắt thấy một người đàn ông đang làm chai lọ trong một cái lò lửa bốc bừng bừng. Trời rất lạnh. Khuôn mặt cô thơm ngát trong làn không khí buốt giá, khá gần với anh; và đột nhiên anh hỏi người đàn ông bên lò lửa:
    “Lửa có nóng lắm không, thưa ông?”
     Nhưng người đàn ông không nghe anh hỏi vì tiếng kêu lùng bùng của lò lửa. Nhưng tốt thôi vì nếu trả lời, có lẽ ông ta chỉ có thể buông ra những lời lẽ thô lỗ, cục cằn.
    Nỗi vui dịu dàng như con sóng miên man tỏa ra từ trái tim anh chảy thành dòng nước ấm theo các động mạch trong cơ thể anh. Giống như ngọn lửa êm dịu của những vì sao, những khoảnh khắc của cuộc đời họ bên nhau, mà không ai biết hoặc có thể chẳng bao giờ biết đến, bùng lên soi sáng ký ức anh. Anh khao khát được gợi nhớ cho cô thấy lại những khoảnh khắc đó, cho cô quên đi những năm tháng buồn tẻ của cuộc sống và chỉ nhớ đến những khoảnh khắc vui sướng tươi đẹp. Anh cảm thấy bao năm qua rồi mà tâm hồn hai người vẫn chưa bị dập tắt. Con cái, công việc viết lách của anh, công việc chăm sóc gia đình của cô đều không dập tắt được ngọn lửa dịu dàng trong tâm hồn họ. Trong một lá thư viết cho cô dạo đó, anh viết: “Tại sao những câu chữ như thế này đối với anh có vẻ tẻ nhạt và lạnh lùng đến thế? Có phải vì không có từ nào đủ dịu dàng để gọi tên em?”
    Giống như một điệu nhạc nghe từ khoảng cách xa xôi, những lời anh viết nhiều năm trước từ quá khứ quay về với anh. Anh khao khát được ở một mình với cô. Khi không còn ai xung quanh họ nữa, khi chỉ còn anh và cô trong phòng khách sạn, khi chỉ có hai người với nhau, anh sẽ cất tiếng dịu dàng gọi cô:
    “Gretta!”
    Có lẽ cô không nghe anh gọi ngay lúc đó: cô đang cởi quần áo. Rồi có điều gì đó trong giọng nói anh khiến cô phải quay lại nhìn anh…
    Ở góc phố Winetavern họ gặp một chiếc xe ngựa. Anh mừng vì tiếng bánh xe lăn trên mặt đường đã cứu anh khỏi những suy nghĩ bất an ấy. Cô nhìn ra ngoài cửa sổ có vẻ mệt mỏi. Những người khác chỉ nói vài lời vu vơ, tay chỉ trỏ vào một tòa nhà hoặc con phố nào đó. Con ngựa chạy đều dưới bầu trời buổi sáng âm u, kéo chiếc xe cũ kỹ chạy lạch cạch, và Gabriel lại thấy mình ngồi với cô trên một chiếc xe ngựa phóng nhanh để bắt kịp chiếc tàu sắp ra khơi, phóng nhanh để đến nơi tuần trăng mật của họ.
    Khi chiếc xe ngựa chạy qua cầu O’Connell, cô O’Callaghan nói:
    “Người ta bảo rằng bạn không bao giờ băng qua cầu O’Connell mà không trông thấy một con ngựa trắng.”
    “Lần này tôi thấy một người trắng,” Gabriel nói.
    “Đâu?” ông Bartell D’Arcy hỏi.
    Gabriel chỉ lên bức tượng, trên đó có những mảng tuyết bám. Rồi anh gật đầu vẫy tay chào một cách thân thiện.
    “Chào Dan nhé,” anh vui vẻ nói.
    Chiếc xe đỗ trước khách sạn, Gabriel nhảy ra ngoài và trả tiền cho người đánh xe, bất chấp sự phản đối của ông Bartell D’Arcy. Anh giúi thêm cho ông ta một shilling. Người đàn ông chào, nói:
    “Thưa ngài, chúc ngài một năm mới thịnh vượng.”
    “Ông cũng vậy, nhé.” Gabriel thân mật nói.
    Lúc ra khỏi xe và đứng bên lề đường chào tạm biệt những người bạn còn ngồi trong xe, cô tựa người vào cánh tay anh, nhẹ nhàng như lúc cô khiêu vũ với anh vài giờ trước đó. Lúc đó anh cảm thấy tự hào và hạnh phúc, hạnh phúc vì cô là của anh, tự hào về nét đẹp duyên dáng và dáng vẻ một người vợ của cô. Nhưng bây giờ, sau bao ký ức nhen nhúm trở về, sự va chạm thể xác, đầy thơ mộng, lạ lùng và quyến rũ, truyền vào anh nỗi khao khát mãnh liệt. Với sự im lặng như chờ đợi của cô, anh kéo sát cánh tay cô vào người anh; và khi họ đứng trước cửa ra vào khách sạn, anh có cảm tưởng như anh và cô đang bỏ trốn cuộc sống và nhiệm vụ của mình, trốn nhà cửa, trốn bạn bè, cùng nhau đi trốn với trái tim hoang dại và rạng rỡ trong một cuộc phiêu lưu mới.
    Một ông già đang ngồi ngủ gật trên chiếc ghế lớn trong gian sảnh khách sạn. Ông ta vào văn phòng thắp một ngọn nến rồi đi ra dẫn lối họ lên cầu thang. Hai người im lặng đi theo ông ta, tiếng chân họ giẵm nhẹ trên lớp thảm dày lót cầu thang. Cô bước sau ông già, đầu cô hơi cúi xuống lúc đi lên, đôi vai mảnh khảnh gù xuống như gánh một gánh nặng, chiếc váy bó chặt quanh người. Anh lẽ ra có thể quàng tay quanh hông cô và giữ cô đứng yên, vì cánh tay anh đang run rẩy với thèm khát muốn ôm chặt cô vào lòng, và chỉ có cái bấm của móng tay vào lòng bàn tay mới kềm chế được sự thôi thúc hoang dại trong cơ thể anh. Ông già xách hành lý dừng lại trên cầu thang vì ngọn nến như muốn tắt. Hai người cũng dừng lại ở bậc thang bên dưới. Trong im lặng, Gabriel có thể nghe thấy tiếng sáp nóng chảy từng giọt xuống chân nến và tiếng tim anh đập thình thịch vào cạnh sườn.
    Ông già lại tiếp tục dẫn họ bước dọc theo hành lang và mở một cánh cửa. Trong phòng, ông đặt ngọn nến xuống bàn rửa mặt và hỏi họ muốn dậy lúc mấy giờ để ông đánh thức.
    “Tám giờ,” Gabriel trả lời.
    Ông già chỉ tay vào nút mở đèn, miệng ông lẩm bẩm vài lời xin lỗi, nhưng Gabriel cắt ngang.
    “Chúng tôi không cần ánh sáng. Ánh sáng từ đường phố hắt vào là quá đủ rồi,” anh nói thêm, tay chỉ vào cây nến, “ông có thể lấy đi món đồ đẹp đẽ này.”
     Ông cầm lên cây nến, động tác thật chậm chạp, vì ông hơi ngạc nhiên trước một yêu cầu khá lạ lùng như vậy. Sau đó, ông lẩm bẩm chúc hai người ngủ ngon rồi đi ra ngoài. Gabriel vặn ổ khóa.
    Ánh sáng từ đèn đường chiếu vào phòng làm thành một vệt dài từ cửa sổ đến cửa ra vào. Gabriel ném áo choàng và mũ lên ghế rồi bước về phía cửa sổ. Anh nhìn xuống đường cố dằn cho cảm xúc sôi sục trong lòng lắng dịu xuống. Sau đó anh quay lại đứng dựa vào chiếc tủ, quay lưng về phía ánh sáng. Cô đã cởi mũ và áo choàng, đứng trước một tấm gương xoay lớn tháo dây thắt lưng. Sau một lúc im lặng, Gabriel nhìn cô rồi nói:
    “Gretta!”
    Cô chậm chạp xoay người theo vệt sáng trên sàn đi về phía anh. Khuôn mặt cô trông buồn bã và mệt mỏi đến độ Gabriel không thể thốt khỏi miệng câu nào. Không, chưa phải lúc, chưa phải lúc cho anh thổ lộ tâm can nung nấu của mình.
    “Trông em có vẻ mệt mỏi,” anh bảo cô.
    “Vâng, em hơi mệt,” cô trả lời anh.
    “Em có thấy không khỏe trong người không?”
    “Không, chỉ mệt, thế thôi.”
    Cô tới cửa sổ đứng nhìn ra ngoài. Gabriel lại ngập ngừng và anh e rằng sự thiếu tự tin lại sắp kềm chế lòng mình, anh đột ngột bảo cô:
    “Gretta! Nhân tiện…”
    “Chuyện gì vậy, anh?”
    “Em biết không, cái anh chàng Malins tội nghiệp.”
    “Sao cơ?”
    “Ừm, anh chàng tội nghiệp, dù sao anh ta cũng là người đàng hoàng,” Gabriel tiếp tục nói bằng giọng hết sức giả tạo như diễn kịch. “Anh ta trả lại anh số tiền anh cho vay, thật tình, anh đã quên bẵng chuyện món nợ. Đáng tiếc anh ta không lánh xa được cái lão Browne, bởi vì thật tình mà nói anh ta không phải là người xấu.”
    Bây giờ cảm giác bực bội trong lòng dâng lên ngùn ngụt khiến anh như run lên. Tại sao cô lại tỏ ra thờ ơ đến thế? Anh không biết phải bắt đầu như thế nào. Cô có đang khó chịu về điều gì đó không? Chỉ cần cô tự ý quay sang ngả vào vòng tay anh, anh sẽ sung sướng biết bao! Để chiếm đoạt cô ngay lúc này thì thật là tàn bạo. Không, trước tiên anh phải nhìn thấy chút nhiệt tình nào đó trong ánh mắt cô. Anh khao khát muốn khơi gợi tâm trạng kỳ lạ này trong cô.
    “Anh cho ông Malais mượn tiền khi nào vậy?” cô hỏi sau một lúc im lặng.
    Gabriel cố dằn lòng để không phải thốt lên những lời lẽ thô bạo về gã Malins suốt ngày say sưa và món tiền anh cho vay. Anh khao khát được trút tâm sự từ tận đáy tâm hồn mình với cô, anh thèm được ép sát cơ thể cô vào người anh, để chiếm đoạt cô. Nhưng anh nói:
    “Ồ, vào dịp lễ Giáng Sinh năm ngoái, lúc anh ta mở cái cửa hàng nhỏ bán thiệp Giáng Sinh trên phố Henry.”
    Anh phát điên lên vì tức giận với chính anh, và lòng ham muốn dâng cao đến nỗi anh không nghe tiếng chân cô bước đến gần. Cô đến đứng trước mặt anh một lúc, nhìn anh một cách khá kỳ lạ, rồi đột nhiên kiễng chân lên đặt nhẹ hai tay lên vai anh, và hôn anh.
    “Anh là một người rất hào hiệp, Gabriel ạ,” cô nói.
    Gabriel run rẩy vì sung sướng với nụ hôn bất ngờ của cô, cách nói của cô cũng là lạ, anh đưa tay lên mái tóc cô rồi vuốt nhè nhẹ ra đằng sau. Tóc cô mịn màng và sáng bóng nhờ được chải gội kỹ. Lòng anh ngập tràn hạnh phúc. Ngay lúc anh đang chờ đợi, mong muốn điều đó thì cô tự ý đến với anh. Có lẽ ý nghĩ cô chạy kịp theo anh rồi chăng? Có lẽ cô đã cảm nhận được sự khao khát mãnh liệt trong anh, và rồi tâm trạng trìu mến hiến dâng đã ập đến với cô, và cô ngả vào anh một cách dễ dàng như vậy. Anh tự trách thầm tại sao mình phải rụt rè, e ngại đến vậy.
    Anh ôm đầu cô giữa hai bàn tay mình. Sau đó nhanh chóng vòng một tay quanh người cô và kéo về phía mình, anh nói nhẹ vào tai cô:
    “Gretta, em yêu, em đang nghĩ gì vậy?”
    Cô không trả lời, và cũng không hoàn toàn khuất phục trong vòng tay anh. Anh lại nói nhỏ:
    “Gretta, nói cho anh biết, chuyện gì vậy? Anh nghĩ anh biết chuyện gì rồi. Anh có biết không?”
    Cô không trả lời anh. Đột nhiên nước mắt cô ứa ra đầm đìa trên hai má, và cô bảo anh:
    “Em đang nghĩ đến bài hát ‘Cô gái làng Aughrim.’”
    Cô vùng ra khỏi tay anh và chạy đến giường, quàng tay qua thành giường, giấu mặt úp vào nệm. Gabriel sững sờ một lúc rồi bước lại gần cô. Lúc đi ngang tấm gương soi lớn dựng đứng trong phòng, anh thấy toàn bộ nhân dáng mình, thân hình đầy đặn, áo quần bảnh bao, khuôn mặt anh luôn bối rối khi nhìn trong gương, và cặp kính mạ vàng sáng lấp lánh. Anh dừng lại cách cô vài bước, nói:
    “Một bài hát? Tại sao một bài hát lại làm em khóc?”
    Cô chống tay ngẩng đầu lên rồi lấy mu bàn tay quẹt cho khô nước mắt như một đứa trẻ. Giọng anh có vẻ ôn nhu hơn dự định.
    “Tại sao, Gretta, tại sao?”
    “Em đang nghĩ về một người cách đây lâu lắm đã từng hát bài hát đó.”
    “Và người cách đây lâu lắm đã từng hát bài hát đó là ai?” Gabriel mỉm cười hỏi.
    “Một người ở Galway em quen khi còn sống với bà em.”
    Nụ cười vụt tắt trên mặt Gabriel. Một cơn giận âm ỷ bắt đầu tụ lại trong lòng anh và ngọn lửa khao khát u ám lại bắt đầu bùng lên sôi sục chảy trong huyết quản.
    “Một người em từng yêu?” Anh hỏi cô, giọng mỉa mai, chua chát.
    “Một cậu trai em quen thời con gái,” cô trả lời, “tên là Michael Furey. Michael thường hát bài hát đó, Cô gái làng Aughrim. Michael lúc đó là một cậu trai hiền lành, dễ mến.”
    Gabriel im lặng. Anh không muốn cô nghĩ rằng anh có hứng thú muốn nghe về chàng trai đáng yêu ấy.
    “Em vẫn có thể hình dung ra Micahel thật rõ ràng,” cô nói sau một lúc im lặng. “Đôi mắt to, đen! Đôi mắt lúc nào cũng như muốn nói lên điều gì!”
    “Ồ, vậy chắc là em yêu Michael lắm.”
    “Em và Michael thường rủ nhau đi dạo,” cô nói, “khi em còn ở Galway.”
    Một ý nghĩ thoáng vụt qua tâm trí Gabriel.
    “Có lẽ đó là lý do em muốn về thăm Galway với cô Ivors, phải không?” Anh lạnh lùng nói.
    Cô nhìn anh, ngạc nhiên hỏi:
    “Để làm gì?”
    Đôi mắt mở to của cô khiến Gabriel cảm thấy bối rối. Anh nhún vai, nói:
    “Làm sao biết được? Có lẽ để gặp người xưa.”
    Ánh mắt cô bây giờ không nhìn anh nữa mà quay sang vệt sáng từ cửa sổ hắt vào phòng, cô im lặng một lúc lâu rồi thẫn thờ buông một câu:
    “Michael chết rồi, chết khi mới mười bảy tuổi. Chết trẻ như vậy chẳng là điều khủng khiếp lắm sao?”
    “Michael làm gì lúc còn sống?” Gabriel hỏi, vẫn giọng mỉa mai.
    “Michael làm việc trong xưởng khí đốt.”
    Gabriel cảm thấy tự thẹn trước sự thất bại trong trò mai mỉa của mình và việc gợi lại hình ảnh từ cõi chết, một cậu trai làm việc trong xưởng chế tạo khí đốt, khiến anh chỉ thấy xấu hổ mà thôi. Trong khi lòng anh tràn ngập những kỷ niệm êm đẹp về cuộc sống bí mật của hai người, đầy sự dịu dàng, niềm vui và đam mê, thì cô so sánh anh với một kẻ khác trong tâm trí mình. Ý thức đáng xấu hổ về con người mình giày vò anh. Anh tự xem mình là một kẻ lố bịch, hành động như một đứa trẻ con vòi vĩnh, một con người đa cảm có ý tốt nhưng thiếu sự bình tâm, một kẻ chăm chăm hướng đến những điều thô lậu và lý tưởng hóa những ham muốn trò hề của chính mình, một gã ngốc nghếch đáng thương mà anh thoáng trông thấy trong gương vừa rồi. Theo bản năng, anh xoay người lại, lưng hướng nhiều hơn về phía ánh sáng bởi anh e rằng cô có thể nhìn thấy sự xấu hổ đang cháy bỏng rát trên trán anh.
    Anh cố giữ giọng điệu hỏi han lạnh lùng nhưng khi nói giọng anh lại tỏ ra nhún nhường, thờ ơ:
    “Gretta, anh nghĩ rằng em đã từng yêu cậu Michael Furey ấy.”
    “Vào thuở đó, em và Michael rất vui vẻ với nhau.”
    Giọng cô khàn khàn, buồn bã. Gabriel bây giờ cảm thấy thật là vô ích nếu cố đẩy đưa cô lọt vào chủ đích cạm bẫy của mình. Anh đưa tay vuốt ve tay cô, nói, giọng cũng buồn bã:
    “Michael đã chết trẻ như thế nào? Vì bệnh lao, phải không?”
    “Em nghĩ Michael đã chết vì em,” cô trả lời.
    Một nỗi sợ hãi mơ hồ xâm chiếm tâm khảm Gabriel với câu trả lời này, như thể, vào thời điểm anh đang hy vọng chiến thắng, một hiện thể khó nhận biết và đầy thù hận nào đó đang tiến đến quấy phá, hãm hại anh, nó thu gom sức mạnh để chống lại anh từ thế giới không thực của nó. Nhưng anh cố tự thoát bằng nỗ lực của lý trí, anh tiếp tục vuốt ve bàn tay cô. Anh không hỏi cô nữa vì anh cảm thấy cô sẽ kể cho anh nghe về chính cô. Bàn tay cô ấm áp và ẩm ướt, cô không phản ứng lại sự va chạm của anh, nhưng anh vẫn tiếp tục vuốt ve như vuốt ve bức thư đầu tiên cô gửi cho anh vào buổi sáng mùa xuân đó.
    “Đó là mùa đông,” cô nói, “khoảng đầu mùa đông lúc em dự định rời nhà bà ngoại lên đây để vào tu viện. Lúc đó Michael bị bệnh nằm trong phòng trọ ở Galway, họ không cho Michael ra ngoài, họ biên thư báo tin cho người nhà của Michael ở làng Oughterard. Họ nói bệnh tình của Michael suy yếu lắm, hoặc điều gì đó tương tự như vậy. Em không biết rõ họ viết gì trong thư.
    Cô dừng lại một lúc, thở dài.
    “Tội nghiệp Michael,” cô nói. “Michael quý mến em lắm, đó là một chàng trai hiền lành. Hai đứa em thường đi chơi với nhau, đi dạo, anh biết đấy, Gabriel, như người ta dưới quê hay làm. Michael học hát chỉ vì sức khỏe của mình. Michael có một giọng hát rất hay, tội nghiệp Michael.”
    “Ồ, và sau đó thì sao?” Gabriel hỏi.
    “Lúc em rời Galway để vào tu viện thì tình trạng Michael tệ hơn nhiều lắm, em không được phép vào thăm nên em đã biên cho Michael một lá thư nói rằng em lên Dublin đi học và sẽ quay lại vào mùa hè thăm Michael, hy vọng lúc đó Michael sẽ khá hơn.”
    Cô dừng lại một lúc cho giọng nói bớt nghẹn ngào rồi tiếp tục:
    “Rồi cái đêm trước khi đi, em đang ở trong nhà bà ngoại xếp áo quần cho vào rương thì nghe tiếng sỏi ném lên cửa sổ. Cửa sổ ướt đẫm nước mưa đến nỗi em không nhìn thấy gì ngoài trời đêm nên em chạy vội xuống cầu thang và lẻn ra phía sau vườn, tại đó em thấy anh chàng tội nghiệp ở cuối vườn đang đứng run rẩy.”
    “Em không bảo Michael quay về ngay à?” Gabriel hỏi.
    “Mặc trời mưa, em lại gần năn nỉ Michael hãy đi về nhà ngay vì sẽ chết nếu cứ đứng dưới mưa như thế. Nhưng Michael nói rằng, ‘Tôi không muốn sống nữa’. Em cũng nhìn thấy điều đó hiện trong mắt Michael! Michael đứng gần sát bức tường cuối vườn dưới một gốc cây.”
    “Michael có chịu nghe lời em đi về nhà không?” Gabriel hỏi.
    “Michael chịu nghe lời em về nhà. Nhưng em vào tu viện được một tuần thì nghe tin Michael qua đời và được chôn cất ở làng Oughterard, quê quán của Michael. Ôi, cái ngày em nghe tin Michael chết!”

    Cô ngừng nói, nghẹn ngào, rồi như xúc động quá, cô ném người úp mặt xuống mặt giường, nức nở khóc. Gabriel lưỡng lự cầm tay cô thêm một lúc nữa, rồi như ngại ngùng không muốn xâm phạm nỗi đau của cô, anh nhẹ nhàng buông tay cô và lặng lẽ bước ra bên cửa sổ.
    Cô nhanh chóng chìm vào giấc ngủ.
    Gabriel dựa người lên thành cửa sổ, thương cảm nhìn mái tóc rối bời và đôi môi hé mở của cô một lúc lâu, anh cũng nghe thấy tiếng  thở hút sâu của cô. Vậy là cô đã có mối tình lãng mạn trong đời: một người đàn ông chết vì cô. Giờ đây anh hầu như không cảm thấy đau đớn chút nào khi nghĩ rằng anh, chồng cô, đã đóng một vai trò tồi tệ như thế nào trong đời cô. Anh nhìn cô ngủ, như thể anh và cô chưa hề chung sống với nhau như vợ chồng. Đôi mắt tò mò của anh dừng lại rất lâu trên khuôn mặt và mái tóc cô, và khi anh nghĩ về hình ảnh cô lúc đó, vào thời điểm cô chớm mang nét trẻ đẹp của một thiếu nữ đương xuân, thì một niềm thương hại thân thiện, kỳ lạ dành cho cô bỗng nhiên tràn ngập tâm hồn anh. Anh không muốn nói với chính mình rằng khuôn mặt cô không còn xinh đẹp nữa, nhưng anh biết đó không phải khuôn mặt mà Michael Furey đã bất chấp cái chết.
    Có lẽ cô đã không kể cho anh nghe hết câu chuyện. Mắt anh nhìn vào chiếc ghế nơi cô ném áo quần. Một sợi dây áo lủng lẳng trên mặt sàn. Một chiếc ủng đứng thẳng, phần trên mềm nhũn cụp xuống, chiếc còn lại nằm lăn lóc dưới sàn. Anh băn khoăn tự hỏi cảm xúc hỗn loạn của mình một giờ trước đó là gì. Nó đến từ đâu? Từ bữa tiệc tối của dì anh, từ bài diễn văn ngu xuẩn của chính anh, từ những cốc rượu bia và màn khiêu vũ, từ niềm vui lúc chào tạm biệt mọi người tại gian sảnh, từ niềm vui lâng lâng sảng khoái lúc đi dọc bờ sông trong mưa tuyết? Đột nhiên anh thấy tội nghiệp dì Julia! Chẳng còn bao lâu nữa dì cũng sẽ trở thành cái bóng bên cạnh bóng ông ngoại anh, ông Patrick Morkan, và con ngựa Johnny của ông. Anh nhìn thấy nét già nua còm cõi trên khuôn mặt dì trong thoáng giây lát lúc dì hát bài “Dàn hàng đón cô dâu.” Có lẽ chẳng bao lâu nữa, anh sẽ ngồi trong chính căn phòng đó, mặc đồ đen, đặt chiếc mũ lụa trên đầu gối. Những tấm rèm cửa được kéo xuống và dì Kate ngồi bên cạnh anh, vừa khóc vừa xì mũi kể cho anh nghe dì Julia chết như thế nào. Anh sẽ cố chắp nối trong đầu những lời lẽ nhạt thếch để an ủi dì nhưng chỉ tìm ra những câu nói khập khiễng, vô dụng. Vâng, vâng, điều đó sẽ xảy ra và xảy ra rất sớm.
    Không khí trong phòng làm vai anh lạnh buốt. Anh khẽ khàng chuồi mình dưới tấm trải giường và nằm xuống bên cạnh vợ. Từng người một, tất cả trở thành những cái bóng. Thà mạnh dạn bước vào thế giới khác, trong vinh quang trọn vẹn của niềm đam mê nào đó, còn hơn là phai nhạt và héo mòn trong hiu hắt với thời gian. Anh nghĩ suốt chừng ấy năm tháng, người nằm bên cạnh anh, người vợ anh, đã khóa chặt trong tim mình hình ảnh ánh mắt của người yêu khi anh ta nói với cô rằng anh ta không muốn sống.
    Nước mắt bỗng ứa ra đầm đìa trong mắt Gabriel. Anh chưa bao giờ có cảm giác như vậy với bất kỳ người phụ nữ nào, nhưng anh biết cảm giác đó chắc chắn là tình yêu. Những giọt nước mắt vẫn không ngớt tuôn ra, và trong màn tối sáng nhờ nhờ của một buổi sớm mai tuyết phủ lấp nhân gian, anh tưởng tượng mình trông thấy hình ảnh một chàng trai trẻ đứng dưới gốc cây nước mưa nhỏ giọt trên đầu. Cái gì đang đến gần? Linh hồn của chàng trai tiến đến gần cõi giới nơi cư trú của vô số người chết. Chàng ý thức được, nhưng không thể nào thấu hiểu nổi sự tồn tại vô thường và mong manh của những linh hồn người chết đó. Danh tính của chính chàng cũng đang mờ nhạt dần trong một thế giới xám xịt không thể cảm nhận được: cái thế giới trong đó những người chết này đã từng được nuôi dưỡng và sinh sống, nó đang thu nhỏ và tan biến.
    Một vài tiếng động nhẹ va vào mặt kính cửa sổ khiến anh quay lại nhìn. Bên ngoài trời lại bắt đầu có tuyết. Cơn buồn ngủ kéo đến, anh mơ màng nhìn những bông tuyết trắng bạc rơi xiên xiên dưới ánh đèn đường. Đã đến lúc anh phải lên đường về phía tây. Vâng, báo chí nói đúng: tuyết rơi khắp Ireland. Tuyết đang đổ xuống khắp mọi nơi ở những vùng đồng bằng tối tăm, trên những ngọn đồi trơ trụi, rơi nhẹ nhàng xuống đầm lầy Allen, và xa hơn về phía tây, nhẹ nhàng xuống những con sóng Shannon đen tối hung hãn. Nó cũng đang rơi xuống mọi ngóc ngách của nghĩa trang giáo đường vắng vẻ trên ngọn đồi nơi Michael Furey được chôn cất. Tuyết bám dày trên những cây thánh giá cong queo và mộ chí, trên những cọc nhọn của cánh cổng nhỏ, trên những bụi gai cằn cỗi. Tâm hồn anh từ từ chìm sâu vào vô thức trong lúc tuyết nhẹ rơi trong vũ trụ, và nhẹ rơi phủ lấp tất cả người sống kẻ chết, như sự kết thúc cuối cùng sa xuống.

James Joyce | Trịnh Y Thư dịch & giới thiệu 

(Trịnh Y Thư dịch từ ấn bản Dubliners, NXB Alfred A. Knoff, 1991.)

 

Chú thích của người dịch:

 

[1]  Một đoạn cầu cảng nam ngạn sông Liffey, thành phố Dublin, được gọi là Đảo Usher, nhưng không phải một hòn đảo, lấy tên từ một gia đình từng nổi tiếng trong cả lĩnh vực thương mại lẫn tôn giáo.

[2]  Nhà thờ St. Mary nằm ở phía nam trung tâm Dublin.

[3]  Tên gọi thân mật của nhà thờ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội tọa lạc ở tây nam trung tâm Dublin.

[4]  Robert Browning [1812-1889]: Thi sĩ kiêm kịch tác gia người Anh.

[5]  Christy Minstrels: Tên một đoàn hát của Mỹ vào thế kỷ XIX, trong đó các diễn viên da trắng hóa trang và ăn mặc như người da đen.

[6]  Quadrille: Một kiểu thức khiêu vũ thời trước gồm bốn cặp nam-nữ bước tới bước lui nhịp nhàng, có nguồn gốc từ Pháp.

[7]  Gọi là kilt, trang phục của dân tộc Gaelic có lịch sử lâu đời. Đây là một chiếc váy xếp ly ở eo, dài đến đầu gối, và thắt bằng thắt lưng, thường thấy mặc ở vùng Cao nguyên Scotland, nhưng cũng được mặc ở Ireland và các quốc gia Celtic khác. Đàn ông Ireland mặc váy kilt bằng vải ca-rô màu xanh lục đậm, màu của quốc gia.

[8]  Balbriggan: Một thị trấn biển cách Dublin 35km về hướng Bắc.

[9]  Nguyên tác câu này là “I have a crow to pluck with you.” Nhóm từ “A crow to pluck” (Ireland) hoặc “A bone to pick” (Anh/Mỹ) là một thành ngữ có nghĩa là có điều gì không đồng ý và muốn tranh cãi để làm sáng tỏ. Ở đây, Joyce sử dụng phương ngữ Ireland, một lần nữa, biểu hiện tinh thần bài Anh của ông.

[10]  Tây Anh (West Briton): Người Ireland nhưng có cảm tình với Anh quốc, vốn là kẻ thù chung của Ireland, tỏ ý miệt thị khi dùng để gọi ai.

[11] Wellington [1769-1852]: Công tước Ireland gốc Anh, người đã đánh bại Napoléon trong trận Waterloo lừng lẫy năm 1815.

[12]  Three Graces / Ba Nữ thần: Theo truyền thuyết thần thoại Hy Lạp cổ đại, là Aglaia, Euphrosyne và Thalia, biểu trưng cho Cái Đẹp, Sự Duyên Dáng và Niềm Vui.

[13]  Paris: Cũng theo truyền thuyết Hy Lạp, Paris là con trai của Priam, vua thành Troy. Trong số ba nữ thần Aphrodite, Athena và Hera, Paris đã chọn trao tặng quả táo vàng của Discord cho Aphrodite, và để đổi lại, bà đã trao Helen, vợ của Menelaus, cho chàng, do đó, gây ra Chiến tranh thành Troy. Ở đây ý của Gabriel là không biết phải vinh danh ai, giữa hai bà dì và cô em họ, là người xứng đáng nhất.

[14]  Arrayed for the Bridal: Một ca khúc trong vở đại nhạc kịch Puritani của Vincenzo Bellini.

[15]  Câu nói này trong nguyên tác là “To take a pick itself,” một cách nói của người Ireland, rất lạ.

[16]  Beannacht libh: Tiếng Ireland, có nghĩa là chào tạm biệt. Phải hiểu nhân vật Ivors trong truyện là biểu tượng của chủ trương đòi độc lập về chính trị, ngôn ngữ và văn hóa cho Ireland của James Joyce.

[17]  Blancmange: một món ăn tráng miệng ngọt, dẻo, giống như thạch được làm từ tinh bột, sữa, hương liệu và các thành phần khác.

[18]  Smyrna: Vùng biển Aegean, Hy Lạp.

[19]  Contralto: Giọng nữ trầm.

[20]  Ba Nữ thần: The Three Graces, xin xem chú thích [12].

[21]  “For He’s a Jolly Good Fellow” là một bài hát phổ biến được hát để chúc mừng một người về một sự kiện quan trọng, chẳng hạn như thăng chức, sinh nhật, đám cưới, nghỉ hưu, kỷ niệm ngày cưới, sinh con hoặc chiến thắng trong một sự kiện thể thao, v.v. Giai điệu có nguồn gốc từ bài hát tiếng Pháp “Malbrough s’en va-t-en guerre” (Marlborough ra chiến trường.)

[22]  Loại vải len có lông được cắt và uốn cong trông giống như lông xoăn làm từ da cừu non được nuôi gần Astrakhan, một thành phố cảng ở phía tây nam nước Nga.

[23]  Tức vua William III của Anh, theo đạo Protestant, người chinh phục xứ Ireland, làm vua Vương quốc Anh, Ireland và Scotland cho đến khi băng hà năm 1702.

 

***

 

Lời người dịch: James Joyce [1882-1941], đại thụ của văn học Ireland đầu thế kỷ XX, thường được xem là một trong vài ba nhà văn có tầm vóc lớn, ảnh hưởng bao trùm văn học thế giới suốt thời kỳ Hiện đại trải dài gần hết thế kỷ XX.  Ông nổi tiếng nhất với tiểu thuyết Ulysses. Các tác phẩm chính khác là tập truyện ngắn Dubliners, các tiểu thuyết A Portrait of the Artist as a Young Man và Finnegans Wake.

    Truyện ngắn The Dead / Cái chết được dịch trên đây, viết năm 1907, là truyện in sau cùng trong tập truyện Dubliners xuất bản năm 1914. Tuy được gọi là truyện ngắn nhưng nhiều nhà phê bình-biên khảo văn học xem đó là một truyện vừa. Ngoài sự khác biệt về hình thức, truyện này hình như cũng có quan điểm, lập trường đạo đức khác đối với quốc gia Ireland, và thường được xem là đóng vai trò chuyển tiếp quan trọng giữa các tác phẩm ngắn, dễ hiểu, dễ đọc hơn trước đó của ông và các tác phẩm dài hơi, trĩu nặng kỹ thuật “dòng ý thức” tinh vi, khó đọc, khó hiểu vì đầy các ẩn dụ mã hóa, về sau.

    Truyện Cái chết, giống như hầu hết các tác phẩm hư cấu khác của Joyce, có vẻ như không có nhiều diễn biến về mặt hành động bề mặt. Sự cộng hưởng thực sự của câu chuyện đến từ cốt truyện phức tạp và những nét tinh tế về chủ đề được kết hợp vào cấu trúc cơ bản của nó. Truyện thu hút sự chú ý rất lớn của giới biên khảo, phê bình, và được đạo diễn John Huston dựng thành phim năm 1987.

    Câu chuyện bắt đầu bằng bữa tiệc khiêu vũ tại nhà hai phụ nữ luống tuổi sống chung với cô cháu gái tên Mary Jane. Nhân vật chính diện là Gabriel, cháu trai của hai phụ nữ, một trí thức, dạy học tại trường đại học và viết mục điểm sách cho báo. Phần lớn chữ nghĩa của truyện được Joyce sử dụng để miêu thuật bữa tiệc với những chi tiết phong phú và thú vị có khả năng dựng lại một xã hội trung lưu đô thị Dublin những năm đầu thế kỷ XX. Chỉ sang đoạn kết của truyện người đọc mới hiểu ra ý nghĩa của truyện là gì.

    Đằng sau những hành động, những tự sự miêu thuật bình thường, thậm chí tẻ nhạt, là tiềm năng diễn giải phong phú của câu chuyện. Một trong những dấu ấn của Joyce trong văn chương là không bao giờ để lộ một chủ ý rõ rệt nào mà luôn “mở” cho người đọc tùy nghi và tùy tiện diễn dịch hoặc phỏng đoán. (Một giai thoại không rõ có đúng không là: Có người hỏi tại sao ông viết cuốn tiểu thuyết Ulysses khó hiểu như vậy, để làm gì, thì ông trả lời, “Để các nhà phê bình biên khảo bận rộn đọc trong suốt 300 năm tới.”)

    Dễ hiểu hơn, tựa đề của truyện Cái chết gợi ý chủ đề chính của nó: nhận thức về quá khứ – người chết hay cái chết – đối với một cá nhân và cách thế của cá nhân sẵn sàng hoặc miễn cưỡng chấp nhận quá khứ đó. Câu chuyện kết hợp nhiều mối liên hệ với quá khứ thông qua nhiều mô-típ khác nhau xuyên suốt câu chuyện.

    Vào thời điểm Joyce viết truyện ngắn này, dân tộc Ireland đang trong giai đoạn sôi động về cuộc đấu tranh đòi chủ quyền đất nước từ tay người Anh. Quan điểm chính trị của Joyce là xã hội cấp tiến, mặc dù không tán đồng đường lối bạo động đổ máu. Bởi thế không có gì lạ nếu ông đưa vào truyện những bội âm chính trị. Phần đầu truyện, giữa những đoạn tự sự có vẻ như vô thưởng vô phạt, Joyce đưa vào cuộc đấu khẩu, đúng hơn, cuộc chất vấn thẳng thừng, đôi lúc gay gắt, giữa Gabriel và cô Molly Ivors, một đồng nghiệp của anh, đối với vấn đề bản sắc của quốc gia và dân tộc Ireland. Cô Ivors là người theo chủ nghĩa dân tộc, chủ trương phục hồi và phục hoạt lại ngôn ngữ, văn hóa Ireland ra khỏi ảnh hưởng sâu đậm của Anh quốc sau mấy thế kỷ bị thực dân Anh chiếm đóng và tìm cách đồng hóa. Trong khi Gabriel là người lừng khừng, thiếu lập trường dân tộc. Về mặt trí tuệ, anh có xu hướng ngả về “phương Đông”, tức Châu Âu và Anh.

    Tuy nhiên, bước vào phần kết, người đọc bắt gặp những phân cảnh đầy kịch tính giữa Gabriel và Gretta, người vợ của mình. Lúc chuẩn bị ra về sau buổi tối tiệc tùng, khiêu vũ nhộn nhịp và hào hứng, trong bóng tối của gian sảnh ngôi nhà, Gabriel bỗng nhìn thấy vợ mình đứng trên cầu thang lắng nghe một điệu hát từ trong phòng vẳng ra. Khi về khách sạn, Gretta thú nhận với anh là bài hát khiến cô nhớ lại người bạn trai thuở thanh xuân đã chết vì cô. Điều này khiến Gabriel chấn động. Anh chấn động không phải vì ghen tuông mà vì anh thốt nhiên nhận thức ra nhiều vấn đề mà chính anh đã vật lộn, liên quan đến việc hình thành một chiều kích mới cho bản sắc của mình, như nhận thức để hiểu ra ý nghĩa phức tạp hơn của tình yêu và mối liên hệ sâu sắc hơn với di sản của chính mình. Đây chính là chủ đề xuyên suốt tập truyện Dubliners: các nhân vật, do một biến cố ngoại tại nào đó, bỗng nhiên như trải qua một giây phút khải thị. Nhưng sự khải thị ở đây không hàm chứa một bội âm tín ngưỡng trong chiều kích tâm linh nào, mà là sự tin tưởng mãnh liệt hơn, rõ rệt hơn vào chính bản thể của sự vật.

    Nhiều nhà biên khảo còn đi xa hơn, gọi đó là sự phục sinh. Bối cảnh của câu chuyện là mùa Giáng Sinh, mùa của hiển linh khải thị – điều không được đề cập rõ ràng nhưng phải suy ra từ văn bản – đã gợi ý cho nhiều nhà phê bình cho rằng trong suốt câu chuyện, nhân vật Gabriel hướng tới sự khải thị của riêng mình, và về bản chất thật của sự vật.

    Ta không biết rõ có con người nào khác trỗi lên từ sự khải thị này của Gabriel hay không, nhưng câu nói “Đã đến lúc anh phải lên đường về phía tây” là gì nếu không phải sự lột xác bước ra khỏi cái hiện có vốn bế tắc, tuyệt vọng. Cái cũ phải chết đi để cá thể mới có thể nảy sinh và thức dậy với một nhận thức cao rộng, phổ quát hơn.

    Cũng có nhận định cho rằng trạng thái của Gabriel lúc đó chỉ là trạng thái nửa tỉnh nửa mê, thậm chí một nhận thức thoáng qua, một giây phút lãng đãng, phiêu bồng, chẳng có ý nghĩa gì đáng kể. Riêng nhà phê bình Richard Ellmann, người viết bộ sách tiểu sử về Joyce được đánh giá cao, thì lập luận rằng trong truyện ngắn Cái chết, Joyce đã vẽ ra một bản nháp về chính bản thân mình nếu ông ở lại Ireland, nếu ông không chọn cuộc sống lưu vong để theo đuổi nghệ thuật của mình. Bởi sự thật là Joyce lìa bỏ quê hương Ireland năm 24 tuổi và sinh sống tại nước ngoài gần như trọn cuộc đời sau đó.

    Vẫn theo các nhà phê bình, truyện còn chứa đựng nhiều biểu tượng. Thí dụ, từ đầu tiên của truyện là “Lily”, tên của con gái người quản gia, người chào đón khách đến dự tiệc. Hoa lily (loa kèn) có mối liên hệ tiềm ẩn với cái chết và sự phục sinh, vì nó là loại hoa thường được người Tây phương dùng trong đám tang và gợi ý về sự phục sinh. Ngoài ra, nó là biểu tượng của tổng lĩnh thiên thần Gabriel, người chào đón những người chết lên thiên đường, vì vậy nó báo trước sự xuất hiện của Gabriel Conroy. Màu trắng của hoa loa kèn cũng có thể gợi ý về tuyết, vốn là mô-típ chính trong truyện, trong mối liên hệ của nó với cái lạnh – hay cái chết – nhưng cũng nằm trong ý niệm che phủ, bảo tồn và cuối cùng cung cấp nguồn lực cho sự tái tạo hoặc hồi sinh. Đoạn cuối, tuyết bên ngoài cửa sổ được sử dụng như một biểu tượng gợi ý những mối liên hệ lớn hơn với nhân loại, một loại tính phổ quát và trải nghiệm phổ quát mà Gabriel hiện có thể thừa nhận hoặc ít nhất nhận thức được.

    Dịch The Dead / Cái chết của James Joyce (hay bất cứ truyện nào trong cả tập truyện Dubliners) là một thách thức lớn đối với tôi, mặc dù truyện ngắn này tương đối khá dễ dàng tiếp cận vì không có những kỹ thuật “dòng ý thức” viết tinh vi, không có những ẩn dụ, ám dụ, mã số bí hiểm như các tác phẩm về sau của Joyce, mà người đọc thông thái nhất cũng phải điên đầu. Tuy vậy, vẫn có những đoạn hiểm hóc, khó dịch, và nhất là Joyce có xu hướng sử dụng phương ngữ hoặc cách nói đặc thù của người Ireland, mà nếu không tra cứu cẩn thận thì sẽ hiểu sai và bản dịch trở nên ngớ ngẩn, thậm chí vô nghĩa. Trong lúc dịch, tôi đã thiết lập một bảng chú thích hầu giúp người đọc tiếng Việt đỡ mất công tìm hiểu để thưởng thức một áng văn chương danh tiếng thế giới. Và nếu có những sai sót nào thì đó là do khả năng kém cỏi của người dịch, mong quý độc giả lượng tình chỉ giáo để bản dịch được hoàn chỉnh hơn. – TYT.