Mary Jane bỏ mọi người chạy vội tới cầu thang, nhưng trước
khi cô tới đó, tiếng hát và tiếng đàn đột nhiên im bặt.
“Ồ, thật đáng tiếc!” cô kêu lên. “Chị Gretta ơi, ông ấy có
xuống đây không?”
Gabriel nghe vợ trả lời có và thấy cô đi xuống phía họ. Đi
sau cô vài bước là ông Bartell D’Arcy và cô O’Callaghan.
“Ô, ông D’Arcy,” Mary Jane kêu lên, “sao ông lại ngưng hát
như thế trong khi tất cả chúng tôi đang say sưa lắng nghe ông!”
“Suốt tối nay tôi năn nỉ ông ấy hát,” cô O’Callaghan nói, “cả
bà Conroy cũng nói vào nữa, nhưng ông nói ông bị cảm nặng và không thể hát được.”
“Ô, ông D’Arcy,” dì Kate nói, “ông chỉ khéo bịa chuyện để
thoái thác chứ gì.”
“Quý vị không thấy giọng tôi khàn như con quạ sao?” Ông
D’Arcy cộc lốc trả lời.
Ông đi vội vào phòng gửi áo choàng lấy áo mặc. Mọi người ai
nấy sửng sốt trước cách nói năng không mấy tao nhã của ông nên đứng lặng im,
không biết nói gì. Dì Kate cau mày ra hiệu cho những người khác đừng nói gì
thêm. Ông D’Arcy đứng đó quấn khăn quàng cổ cẩn thận, cau mày.
“Rõ là vì thời tiết,” dì Julia nói sau một lúc im lặng.
“Đúng vậy, ai cũng bị cảm lạnh,” dì Kate nói liền tiếp theo,
“tất cả mọi người.”
“Người ta bảo là,” Mary Jane nói, “đã ba mươi năm rồi chúng
ta mới có nhiều tuyết như thế này; sáng nay em đọc báo thấy nói rằng tuyết đang
phủ kín khắp Ireland.”
“Tôi thích cảnh tuyết rơi,” dì Julia nói giọng buồn buồn.
“Tôi cũng thế,” cô O’Callaghan nói, “tôi nghĩ Giáng Sinh
không bao giờ thực sự là Giáng Sinh trừ phi chúng ta có tuyết trên mặt đất.”
“Nhưng ông D’Arcy đáng thương thì không thích tuyết,” dì
Kate mỉm cười nói.
Ông D’Arcy từ phòng gửi áo choàng bước ra, cổ quấn khăn và
áo cài khuy kín mít, với giọng nói như ân hận về thái độ thiếu lịch sự của mình
ban nãy, ông kể chuyện ông bị cảm lạnh như thế nào. Mọi người lại thi nhau
khuyên giải, an ủi ông, nói thật đáng tiếc và khuyên ông nên hết sức cẩn thận với
cổ họng của mình khi ở ngoài trời ban đêm. Gabriel nhìn vợ mình, cô không tham
gia vào cuộc trò chuyện của mọi người. Cô đứng ngay dưới ánh đèn quạt trần bụi
bám, ánh đèn ga trong nhà giọi sáng mái tóc màu đồng sẫm của cô mà anh thấy cô
sấy khô trên ngọn lửa vài ngày trước. Cô vẫn giữ thái độ tư lự và hình như cô
chẳng màng gì đến chuyện mọi người đang nói xung quanh. Cuối cùng, cô quay mặt
về phía họ và Gabriel thấy má cô ửng hồng, đôi mắt long lanh sáng. Một niềm vui
chợt dâng lên trong lòng anh.
“Ông D’Arcy,” cô nói, “tựa bài hát ông vừa hát là gì vậy?”
“Cô gái làng Aughrim,” ông D’Arcy đáp lời cô, “nhưng
tôi không nhớ rõ lắm. Tại sao? Cô biết bài hát đó chăng?”
“Cô gái làng Aughrim,” cô lặp lại. “Thế mà tôi cố nhớ
mãi không ra.”
“Bài hát nghe thật hay,” Mary Jane nói. “Thật đáng tiếc tối
nay giọng ông không được khỏe.”
“Này, Mary Jane,” dì Kate nói, “cháu đừng làm phiền ông
D’Arcy nữa nhé. Ông đang khó chịu trong người, đừng làm ông khó chịu thêm.”
Thấy tất cả đã sẵn sàng ra về, bà đưa họ ra cửa và nói lời tạm
biệt.
“Chào dì Kate, cảm ơn dì đã cho chúng cháu một buổi tối vui
vẻ.”
“Chào Gabriel. Chào Gretta!”
“Chào dì Kate, cảm ơn dì rất nhiều. Chào dì Julia.”
“Ồ, chào Gretta, nãy giờ dì không thấy cháu đâu.”
“Chào ông D’Arcy. Chào cô O’Callaghan.”
“Chào bà Morkan.”
“Chào lần nữa.”
“Chào tất cả mọi người. Về nhà an toàn nhé.”
“Xin chào. Xin chào.”
Trời vẫn chưa sáng hẳn. Ánh sáng vàng vọt buồn tẻ bao phủ
lên những ngôi nhà và dòng sông; bầu trời hình như hạ thấp xuống. Dưới chân bùn
nhão nhoẹt; chỉ có những mảng tuyết trắng bám trên mái nhà, trên bờ kè bến cảng.
Những ngọn đèn đường vẫn cháy lù mù trong bầu không khí u ám và bên kia sông,
cung điện Four Courts vươn lên giữa nền trời nằng nặng như mang vẻ gì đầy đe dọa.
Cô đi trước anh, song hàng với ông Bartell D’Arcy, đôi giày
bọc trong chiếc túi màu nâu kẹp dưới nách, hai tay giữ cho chiếc váy không lấm
bùn. Dáng điệu cô không còn nét duyên dáng như lúc ở trong nhà, nhưng đôi mắt
Gabriel vẫn sáng ngời hạnh phúc. Máu chảy mạnh trong huyết quản anh; những suy
nghĩ náo loạn trong trí não anh, hãnh diện, vui tươi, dịu dàng, dũng cảm.
Cô nhẹ nhàng bước đi trước mặt anh, dáng người thon cao đến
nỗi anh như muốn chạy theo cô mà không gây tiếng động nào chỉ để nắm vai cô và
nói điều gì đó vừa ngốc nghếch vừa trìu mến vào tai cô. Trông cô có vẻ yếu đuối
làm sao, anh cảm thấy nỗi khao khát được ôm ấp vỗ về cô trước điều gì đó hung
hiểm chỉ để sau đó ở một mình với cô. Những khoảnh khắc bí mật trong cuộc sống
chung bao năm qua bỗng hiện về như những vì sao trong ký ức anh. Một chiếc
phong bì trên có hình hoa hướng dương nằm bên cạnh tách trà buổi sớm và anh lấy
tay vuốt ve nó. Những con chim hót líu lo trong đám thường xuân và tấm rèm cửa
chợp chờn ánh nắng lung linh dọc theo sàn nhà: anh không thể nuốt trôi bữa ăn
vì niềm sung sướng làm anh nghẹn. Họ đứng trên một sân ga đông người và anh đặt
tấm vé tàu vào găng tay ấm áp của cô. Anh đứng cạnh cô trong giá lạnh, nhìn qua
khung cửa sổ lưới sắt thấy một người đàn ông đang làm chai lọ trong một cái lò
lửa bốc bừng bừng. Trời rất lạnh. Khuôn mặt cô thơm ngát trong làn không khí buốt
giá, khá gần với anh; và đột nhiên anh hỏi người đàn ông bên lò lửa:
“Lửa có nóng lắm không, thưa ông?”
Nhưng người đàn ông không nghe anh hỏi vì tiếng kêu
lùng bùng của lò lửa. Nhưng tốt thôi vì nếu trả lời, có lẽ ông ta chỉ có thể
buông ra những lời lẽ thô lỗ, cục cằn.
Nỗi vui dịu dàng như con sóng miên man tỏa ra từ trái tim
anh chảy thành dòng nước ấm theo các động mạch trong cơ thể anh. Giống như ngọn
lửa êm dịu của những vì sao, những khoảnh khắc của cuộc đời họ bên nhau, mà
không ai biết hoặc có thể chẳng bao giờ biết đến, bùng lên soi sáng ký ức anh.
Anh khao khát được gợi nhớ cho cô thấy lại những khoảnh khắc đó, cho cô quên đi
những năm tháng buồn tẻ của cuộc sống và chỉ nhớ đến những khoảnh khắc vui sướng
tươi đẹp. Anh cảm thấy bao năm qua rồi mà tâm hồn hai người vẫn chưa bị dập tắt.
Con cái, công việc viết lách của anh, công việc chăm sóc gia đình của cô đều
không dập tắt được ngọn lửa dịu dàng trong tâm hồn họ. Trong một lá thư viết
cho cô dạo đó, anh viết: “Tại sao những câu chữ như thế này đối với anh có vẻ tẻ
nhạt và lạnh lùng đến thế? Có phải vì không có từ nào đủ dịu dàng để gọi tên
em?”
Giống như một điệu nhạc nghe từ khoảng cách xa xôi, những lời
anh viết nhiều năm trước từ quá khứ quay về với anh. Anh khao khát được ở một
mình với cô. Khi không còn ai xung quanh họ nữa, khi chỉ còn anh và cô trong
phòng khách sạn, khi chỉ có hai người với nhau, anh sẽ cất tiếng dịu dàng gọi
cô:
“Gretta!”
Có lẽ cô không nghe anh gọi ngay lúc đó: cô đang cởi quần
áo. Rồi có điều gì đó trong giọng nói anh khiến cô phải quay lại nhìn anh…
Ở góc phố Winetavern họ gặp một chiếc xe ngựa. Anh mừng vì
tiếng bánh xe lăn trên mặt đường đã cứu anh khỏi những suy nghĩ bất an ấy. Cô
nhìn ra ngoài cửa sổ có vẻ mệt mỏi. Những người khác chỉ nói vài lời vu vơ, tay
chỉ trỏ vào một tòa nhà hoặc con phố nào đó. Con ngựa chạy đều dưới bầu trời buổi
sáng âm u, kéo chiếc xe cũ kỹ chạy lạch cạch, và Gabriel lại thấy mình ngồi với
cô trên một chiếc xe ngựa phóng nhanh để bắt kịp chiếc tàu sắp ra khơi, phóng
nhanh để đến nơi tuần trăng mật của họ.
Khi chiếc xe ngựa chạy qua cầu O’Connell, cô O’Callaghan
nói:
“Người ta bảo rằng bạn không bao giờ băng qua cầu O’Connell
mà không trông thấy một con ngựa trắng.”
“Lần này tôi thấy một người trắng,” Gabriel nói.
“Đâu?” ông Bartell D’Arcy hỏi.
Gabriel chỉ lên bức tượng, trên đó có những mảng tuyết bám.
Rồi anh gật đầu vẫy tay chào một cách thân thiện.
“Chào Dan nhé,” anh vui vẻ nói.
Chiếc xe đỗ trước khách sạn, Gabriel nhảy ra ngoài và trả tiền
cho người đánh xe, bất chấp sự phản đối của ông Bartell D’Arcy. Anh giúi thêm
cho ông ta một shilling. Người đàn ông chào, nói:
“Thưa ngài, chúc ngài một năm mới thịnh vượng.”
“Ông cũng vậy, nhé.” Gabriel thân mật nói.
Lúc ra khỏi xe và đứng bên lề đường chào tạm biệt những người
bạn còn ngồi trong xe, cô tựa người vào cánh tay anh, nhẹ nhàng như lúc cô
khiêu vũ với anh vài giờ trước đó. Lúc đó anh cảm thấy tự hào và hạnh phúc, hạnh
phúc vì cô là của anh, tự hào về nét đẹp duyên dáng và dáng vẻ một người vợ của
cô. Nhưng bây giờ, sau bao ký ức nhen nhúm trở về, sự va chạm thể xác, đầy thơ
mộng, lạ lùng và quyến rũ, truyền vào anh nỗi khao khát mãnh liệt. Với sự im lặng
như chờ đợi của cô, anh kéo sát cánh tay cô vào người anh; và khi họ đứng trước
cửa ra vào khách sạn, anh có cảm tưởng như anh và cô đang bỏ trốn cuộc sống và
nhiệm vụ của mình, trốn nhà cửa, trốn bạn bè, cùng nhau đi trốn với trái tim
hoang dại và rạng rỡ trong một cuộc phiêu lưu mới.
Một ông già đang ngồi ngủ gật trên chiếc ghế lớn trong gian
sảnh khách sạn. Ông ta vào văn phòng thắp một ngọn nến rồi đi ra dẫn lối họ lên
cầu thang. Hai người im lặng đi theo ông ta, tiếng chân họ giẵm nhẹ trên lớp thảm
dày lót cầu thang. Cô bước sau ông già, đầu cô hơi cúi xuống lúc đi lên, đôi
vai mảnh khảnh gù xuống như gánh một gánh nặng, chiếc váy bó chặt quanh người.
Anh lẽ ra có thể quàng tay quanh hông cô và giữ cô đứng yên, vì cánh tay anh
đang run rẩy với thèm khát muốn ôm chặt cô vào lòng, và chỉ có cái bấm của móng
tay vào lòng bàn tay mới kềm chế được sự thôi thúc hoang dại trong cơ thể anh.
Ông già xách hành lý dừng lại trên cầu thang vì ngọn nến như muốn tắt. Hai người
cũng dừng lại ở bậc thang bên dưới. Trong im lặng, Gabriel có thể nghe thấy tiếng
sáp nóng chảy từng giọt xuống chân nến và tiếng tim anh đập thình thịch vào cạnh
sườn.
Ông già lại tiếp tục dẫn họ bước dọc theo hành lang và mở một
cánh cửa. Trong phòng, ông đặt ngọn nến xuống bàn rửa mặt và hỏi họ muốn dậy
lúc mấy giờ để ông đánh thức.
“Tám giờ,” Gabriel trả lời.
Ông già chỉ tay vào nút mở đèn, miệng ông lẩm bẩm vài lời
xin lỗi, nhưng Gabriel cắt ngang.
“Chúng tôi không cần ánh sáng. Ánh sáng từ đường phố hắt vào
là quá đủ rồi,” anh nói thêm, tay chỉ vào cây nến, “ông có thể lấy đi món đồ đẹp
đẽ này.”
Ông cầm lên cây nến, động tác thật chậm chạp, vì ông
hơi ngạc nhiên trước một yêu cầu khá lạ lùng như vậy. Sau đó, ông lẩm bẩm chúc
hai người ngủ ngon rồi đi ra ngoài. Gabriel vặn ổ khóa.
Ánh sáng từ đèn đường chiếu vào phòng làm thành một vệt dài
từ cửa sổ đến cửa ra vào. Gabriel ném áo choàng và mũ lên ghế rồi bước về phía
cửa sổ. Anh nhìn xuống đường cố dằn cho cảm xúc sôi sục trong lòng lắng dịu xuống.
Sau đó anh quay lại đứng dựa vào chiếc tủ, quay lưng về phía ánh sáng. Cô đã cởi
mũ và áo choàng, đứng trước một tấm gương xoay lớn tháo dây thắt lưng. Sau một
lúc im lặng, Gabriel nhìn cô rồi nói:
“Gretta!”
Cô chậm chạp xoay người theo vệt sáng trên sàn đi về phía
anh. Khuôn mặt cô trông buồn bã và mệt mỏi đến độ Gabriel không thể thốt khỏi
miệng câu nào. Không, chưa phải lúc, chưa phải lúc cho anh thổ lộ tâm can nung
nấu của mình.
“Trông em có vẻ mệt mỏi,” anh bảo cô.
“Vâng, em hơi mệt,” cô trả lời anh.
“Em có thấy không khỏe trong người không?”
“Không, chỉ mệt, thế thôi.”
Cô tới cửa sổ đứng nhìn ra ngoài. Gabriel lại ngập ngừng và
anh e rằng sự thiếu tự tin lại sắp kềm chế lòng mình, anh đột ngột bảo cô:
“Gretta! Nhân tiện…”
“Chuyện gì vậy, anh?”
“Em biết không, cái anh chàng Malins tội nghiệp.”
“Sao cơ?”
“Ừm, anh chàng tội nghiệp, dù sao anh ta cũng là người đàng
hoàng,” Gabriel tiếp tục nói bằng giọng hết sức giả tạo như diễn kịch. “Anh ta
trả lại anh số tiền anh cho vay, thật tình, anh đã quên bẵng chuyện món nợ.
Đáng tiếc anh ta không lánh xa được cái lão Browne, bởi vì thật tình mà nói anh
ta không phải là người xấu.”
Bây giờ cảm giác bực bội trong lòng dâng lên ngùn ngụt khiến
anh như run lên. Tại sao cô lại tỏ ra thờ ơ đến thế? Anh không biết phải bắt đầu
như thế nào. Cô có đang khó chịu về điều gì đó không? Chỉ cần cô tự ý quay sang
ngả vào vòng tay anh, anh sẽ sung sướng biết bao! Để chiếm đoạt cô ngay lúc này
thì thật là tàn bạo. Không, trước tiên anh phải nhìn thấy chút nhiệt tình nào
đó trong ánh mắt cô. Anh khao khát muốn khơi gợi tâm trạng kỳ lạ này trong cô.
“Anh cho ông Malais mượn tiền khi nào vậy?” cô hỏi sau một
lúc im lặng.
Gabriel cố dằn lòng để không phải thốt lên những lời lẽ thô
bạo về gã Malins suốt ngày say sưa và món tiền anh cho vay. Anh khao khát được
trút tâm sự từ tận đáy tâm hồn mình với cô, anh thèm được ép sát cơ thể cô vào
người anh, để chiếm đoạt cô. Nhưng anh nói:
“Ồ, vào dịp lễ Giáng Sinh năm ngoái, lúc anh ta mở cái cửa
hàng nhỏ bán thiệp Giáng Sinh trên phố Henry.”
Anh phát điên lên vì tức giận với chính anh, và lòng ham muốn
dâng cao đến nỗi anh không nghe tiếng chân cô bước đến gần. Cô đến đứng trước mặt
anh một lúc, nhìn anh một cách khá kỳ lạ, rồi đột nhiên kiễng chân lên đặt nhẹ
hai tay lên vai anh, và hôn anh.
“Anh là một người rất hào hiệp, Gabriel ạ,” cô nói.
Gabriel run rẩy vì sung sướng với nụ hôn bất ngờ của cô,
cách nói của cô cũng là lạ, anh đưa tay lên mái tóc cô rồi vuốt nhè nhẹ ra đằng
sau. Tóc cô mịn màng và sáng bóng nhờ được chải gội kỹ. Lòng anh ngập tràn hạnh
phúc. Ngay lúc anh đang chờ đợi, mong muốn điều đó thì cô tự ý đến với anh. Có
lẽ ý nghĩ cô chạy kịp theo anh rồi chăng? Có lẽ cô đã cảm nhận được sự khao
khát mãnh liệt trong anh, và rồi tâm trạng trìu mến hiến dâng đã ập đến với cô,
và cô ngả vào anh một cách dễ dàng như vậy. Anh tự trách thầm tại sao mình phải
rụt rè, e ngại đến vậy.
Anh ôm đầu cô giữa hai bàn tay mình. Sau đó nhanh chóng vòng
một tay quanh người cô và kéo về phía mình, anh nói nhẹ vào tai cô:
“Gretta, em yêu, em đang nghĩ gì vậy?”
Cô không trả lời, và cũng không hoàn toàn khuất phục trong
vòng tay anh. Anh lại nói nhỏ:
“Gretta, nói cho anh biết, chuyện gì vậy? Anh nghĩ anh biết
chuyện gì rồi. Anh có biết không?”
Cô không trả lời anh. Đột nhiên nước mắt cô ứa ra đầm đìa
trên hai má, và cô bảo anh:
“Em đang nghĩ đến bài hát ‘Cô gái làng Aughrim.’”
Cô vùng ra khỏi tay anh và chạy đến giường, quàng tay qua
thành giường, giấu mặt úp vào nệm. Gabriel sững sờ một lúc rồi bước lại gần cô.
Lúc đi ngang tấm gương soi lớn dựng đứng trong phòng, anh thấy toàn bộ nhân
dáng mình, thân hình đầy đặn, áo quần bảnh bao, khuôn mặt anh luôn bối rối khi
nhìn trong gương, và cặp kính mạ vàng sáng lấp lánh. Anh dừng lại cách cô vài
bước, nói:
“Một bài hát? Tại sao một bài hát lại làm em khóc?”
Cô chống tay ngẩng đầu lên rồi lấy mu bàn tay quẹt cho khô
nước mắt như một đứa trẻ. Giọng anh có vẻ ôn nhu hơn dự định.
“Tại sao, Gretta, tại sao?”
“Em đang nghĩ về một người cách đây lâu lắm đã từng hát bài
hát đó.”
“Và người cách đây lâu lắm đã từng hát bài hát đó là ai?”
Gabriel mỉm cười hỏi.
“Một người ở Galway em quen khi còn sống với bà em.”
Nụ cười vụt tắt trên mặt Gabriel. Một cơn giận âm ỷ bắt đầu
tụ lại trong lòng anh và ngọn lửa khao khát u ám lại bắt đầu bùng lên sôi sục
chảy trong huyết quản.
“Một người em từng yêu?” Anh hỏi cô, giọng mỉa mai, chua
chát.
“Một cậu trai em quen thời con gái,” cô trả lời, “tên là
Michael Furey. Michael thường hát bài hát đó, Cô gái làng Aughrim.
Michael lúc đó là một cậu trai hiền lành, dễ mến.”
Gabriel im lặng. Anh không muốn cô nghĩ rằng anh có hứng thú
muốn nghe về chàng trai đáng yêu ấy.
“Em vẫn có thể hình dung ra Micahel thật rõ ràng,” cô nói
sau một lúc im lặng. “Đôi mắt to, đen! Đôi mắt lúc nào cũng như muốn nói lên điều
gì!”
“Ồ, vậy chắc là em yêu Michael lắm.”
“Em và Michael thường rủ nhau đi dạo,” cô nói, “khi em còn ở
Galway.”
Một ý nghĩ thoáng vụt qua tâm trí Gabriel.
“Có lẽ đó là lý do em muốn về thăm Galway với cô Ivors, phải
không?” Anh lạnh lùng nói.
Cô nhìn anh, ngạc nhiên hỏi:
“Để làm gì?”
Đôi mắt mở to của cô khiến Gabriel cảm thấy bối rối. Anh
nhún vai, nói:
“Làm sao biết được? Có lẽ để gặp người xưa.”
Ánh mắt cô bây giờ không nhìn anh nữa mà quay sang vệt sáng
từ cửa sổ hắt vào phòng, cô im lặng một lúc lâu rồi thẫn thờ buông một câu:
“Michael chết rồi, chết khi mới mười bảy tuổi. Chết trẻ như
vậy chẳng là điều khủng khiếp lắm sao?”
“Michael làm gì lúc còn sống?” Gabriel hỏi, vẫn giọng mỉa
mai.
“Michael làm việc trong xưởng khí đốt.”
Gabriel cảm thấy tự thẹn trước sự thất bại trong trò mai mỉa
của mình và việc gợi lại hình ảnh từ cõi chết, một cậu trai làm việc trong xưởng
chế tạo khí đốt, khiến anh chỉ thấy xấu hổ mà thôi. Trong khi lòng anh tràn ngập
những kỷ niệm êm đẹp về cuộc sống bí mật của hai người, đầy sự dịu dàng, niềm
vui và đam mê, thì cô so sánh anh với một kẻ khác trong tâm trí mình. Ý thức
đáng xấu hổ về con người mình giày vò anh. Anh tự xem mình là một kẻ lố bịch,
hành động như một đứa trẻ con vòi vĩnh, một con người đa cảm có ý tốt nhưng thiếu
sự bình tâm, một kẻ chăm chăm hướng đến những điều thô lậu và lý tưởng hóa những
ham muốn trò hề của chính mình, một gã ngốc nghếch đáng thương mà anh thoáng
trông thấy trong gương vừa rồi. Theo bản năng, anh xoay người lại, lưng hướng
nhiều hơn về phía ánh sáng bởi anh e rằng cô có thể nhìn thấy sự xấu hổ đang
cháy bỏng rát trên trán anh.
Anh cố giữ giọng điệu hỏi han lạnh lùng nhưng khi nói giọng
anh lại tỏ ra nhún nhường, thờ ơ:
“Gretta, anh nghĩ rằng em đã từng yêu cậu Michael Furey ấy.”
“Vào thuở đó, em và Michael rất vui vẻ với nhau.”
Giọng cô khàn khàn, buồn bã. Gabriel bây giờ cảm thấy thật
là vô ích nếu cố đẩy đưa cô lọt vào chủ đích cạm bẫy của mình. Anh đưa tay vuốt
ve tay cô, nói, giọng cũng buồn bã:
“Michael đã chết trẻ như thế nào? Vì bệnh lao, phải không?”
“Em nghĩ Michael đã chết vì em,” cô trả lời.
Một nỗi sợ hãi mơ hồ xâm chiếm tâm khảm Gabriel với câu trả
lời này, như thể, vào thời điểm anh đang hy vọng chiến thắng, một hiện thể khó
nhận biết và đầy thù hận nào đó đang tiến đến quấy phá, hãm hại anh, nó thu gom
sức mạnh để chống lại anh từ thế giới không thực của nó. Nhưng anh cố tự thoát
bằng nỗ lực của lý trí, anh tiếp tục vuốt ve bàn tay cô. Anh không hỏi cô nữa
vì anh cảm thấy cô sẽ kể cho anh nghe về chính cô. Bàn tay cô ấm áp và ẩm ướt,
cô không phản ứng lại sự va chạm của anh, nhưng anh vẫn tiếp tục vuốt ve như vuốt
ve bức thư đầu tiên cô gửi cho anh vào buổi sáng mùa xuân đó.
“Đó là mùa đông,” cô nói, “khoảng đầu mùa đông lúc em dự định
rời nhà bà ngoại lên đây để vào tu viện. Lúc đó Michael bị bệnh nằm trong phòng
trọ ở Galway, họ không cho Michael ra ngoài, họ biên thư báo tin cho người nhà
của Michael ở làng Oughterard. Họ nói bệnh tình của Michael suy yếu lắm, hoặc
điều gì đó tương tự như vậy. Em không biết rõ họ viết gì trong thư.
Cô dừng lại một lúc, thở dài.
“Tội nghiệp Michael,” cô nói. “Michael quý mến em lắm, đó là
một chàng trai hiền lành. Hai đứa em thường đi chơi với nhau, đi dạo, anh biết
đấy, Gabriel, như người ta dưới quê hay làm. Michael học hát chỉ vì sức khỏe của
mình. Michael có một giọng hát rất hay, tội nghiệp Michael.”
“Ồ, và sau đó thì sao?” Gabriel hỏi.
“Lúc em rời Galway để vào tu viện thì tình trạng Michael tệ
hơn nhiều lắm, em không được phép vào thăm nên em đã biên cho Michael một lá
thư nói rằng em lên Dublin đi học và sẽ quay lại vào mùa hè thăm Michael, hy vọng
lúc đó Michael sẽ khá hơn.”
Cô dừng lại một lúc cho giọng nói bớt nghẹn ngào rồi tiếp tục:
“Rồi cái đêm trước khi đi, em đang ở trong nhà bà ngoại xếp
áo quần cho vào rương thì nghe tiếng sỏi ném lên cửa sổ. Cửa sổ ướt đẫm nước
mưa đến nỗi em không nhìn thấy gì ngoài trời đêm nên em chạy vội xuống cầu
thang và lẻn ra phía sau vườn, tại đó em thấy anh chàng tội nghiệp ở cuối vườn
đang đứng run rẩy.”
“Em không bảo Michael quay về ngay à?” Gabriel hỏi.
“Mặc trời mưa, em lại gần năn nỉ Michael hãy đi về nhà ngay
vì sẽ chết nếu cứ đứng dưới mưa như thế. Nhưng Michael nói rằng, ‘Tôi không muốn
sống nữa’. Em cũng nhìn thấy điều đó hiện trong mắt Michael! Michael đứng gần
sát bức tường cuối vườn dưới một gốc cây.”
“Michael có chịu nghe lời em đi về nhà không?” Gabriel hỏi.
“Michael chịu nghe lời em về nhà. Nhưng em vào tu viện được
một tuần thì nghe tin Michael qua đời và được chôn cất ở làng Oughterard, quê
quán của Michael. Ôi, cái ngày em nghe tin Michael chết!”