19 April 2025

TRỞ VỀ HUẾ THÁNG TƯ 1975 - Lê quang Thông

Tháng Tư 1975 là mốc thời gian đặc biệt, ghi dấu sự thay đổi lớn cuộc đời mọi người Việt nam. Tuỳ theo vùng miền, tuỳ theo độ tuổi, và chính kiến...cách nhìn có khác nhau nhưng điểm chung, sau nửa thế kỷ trôi qua, nhìn lại, rõ ràng là một cuộc bức tử miền Nam .

Cuộc bức tử được hỗ trợ bởi Liên Xô, Trung Quốc toàn lực, bất chấp sinh mạng, nghèo đói của hàng triệu gia đình miền Bắc, chống lại liên minh các nước tự do, dẫn đầu là Mỹ. Mỹ với đường lối chính trị tiền hậu bất nhất, theo đuổi hay bỏ rơi miền Nam theo lợi ích của chính Mỹ, hay đúng ra của Đảng phái và tài phiệt Mỹ, bất chấp sinh mạng của hàng triệu gia đình, con người miền Nam.

Đi sâu vào phân tích, lý luận không phải là mục đích của bài này. Tôi chỉ muốn ghi lại những gì đã trải qua, trung thực của một người đã sống trong giai đoạn đó. Mai sau dù thể chế chính trị nào, hay tình cảm yêu ghét lật trái sự thực, lớp trẻ lớn lên đọc và biết đã có một thời như thế.

Sáng 2 tháng Tư 1975, tôi rời Đà Nẵng ra Huế bằng xe gắn máy, sau khi Đà Nẵng yên tiếng súng ngày 29.3 và sau khi được giấy chứng nhận trình diện giáo chức ở trường Phan châu Trinh ngày 31.3. Bị bắt trên đèo Hải Vân và bị giữ lại một đêm trong Hang Dơi, một nơi trước đây tôi chỉ biết qua câu ca dao miền Trung :

Đường bộ thì sợ Hải Vân

Đường thủy thì sợ sóng thần Hang Dơi.

Một đêm kinh hoàng với sợ hãi bị bắn chết bất cứ lúc nào dưới họng súng mấy tay du kích mà tên chỉ huy do mù chữ, cầm thẻ giáo chức tôi xuất trình, đã nổi điên lên, dí súng ngay vào đầu tôi, khi thấy ở góc trái thẻ, có in cờ vàng ba sọc đỏ.

Tháng Tư và quê hương Thừa thiên Huế đón chào tôi “nồng nhiệt” như thế đó, mở đầu cho một chuỗi ngày trí óc căng thẳng, đời sống vật chất tồi tệ, và nỗi lo sợ thường trực.

Từ trạm gác ở Ngoẹo Giàng Xay An cựu, tôi được chỉ dẫn đến Cercle sportif, Câu Lạc Bộ Thể Thao trên đường Lê Lợi, mà người Huế hay gọi đơn giản là Xẹt, nơi trình diện Giáo chức. Ở đó tôi gặp lại những gương mặt quen thuộc của một số Sinh viên Huế, bây giờ mũ tai bèo, súng AK, băng đỏ ở bắp tay, gương mặt đằng đằng sát khí, nhìn những người chạy khỏi Huế tháng Ba vừa qua như những kẻ phản quốc.

Tôi được chỉ ngồi ở góc chiếc bàn lớn, nơi đó có sẵn vài người đang cắm cúi viết. Hồi lâu tôi được phát xấp giấy với lời hướng dẫn ghi lý lịch cá nhân, quá trình học tập, làm việc trước tháng 4 năm 1975, trong thời gian từ tháng 3 đến nay và sau cùng là mục đích, mong muốn khi trình diện.

Chỉ chừng đó thôi mà mấy người ngồi quanh chung bàn, như đang giải một bài toán khó, hay viết luận văn về một vấn đề văn chương, triết lý quá trừu tượng. Họ nhăn mặt nhíu mày, nhìn mông lung trần nhà, coi bộ thận trọng từng câu trước khi đặt bút.

Tôi viết theo lối biên niên, theo thứ tự thời gian, làm gì, ở đâu …và đem nộp. Tôi được chỉ về chỗ ngồi cũ và đợi. Một vài người được đọc tên và phát cho một tờ giấy, có vẽ như chứng nhận đã trình diện và phân phối về nơi sẽ công tác. Vài người được kêu tên và dẫn qua một phòng khác, không biết để làm gì ?

Còn tôi mãi vẫn không có ai đoái hoài. Trong chờ đợi, lòng bắt đầu lo âu vu vơ. Chừng hơn tiếng đồng hồ, tôi thấy có người quen đi ra, đó là anh Cầm, người vẫn đi uống cà phê, ciné với tôi từ khi tôi về Huế đi dạy, sau thời gian tu nghiệp ở Pháp.

Từ đầu tháng 3 chúng tôi không gặp nhau. Anh Cầm nhìn tôi ngờ ngợ với đầu tóc cắt cụt. Chợt nhận ra, anh mừng rỡ hỏi thăm. Tôi nói vừa từ Đà Nẵng ra, đã nộp bản tự khai trình diện và đang đợi. Anh trở lui phòng trong, lát sau trở ra với giấy chứng nhận và bố trí công tác. Anh Cầm kéo tôi ra ngoài và cho biết tôi sẽ về Ty Giáo dục, nơi anh đang điều hành lâm thời, và làm việc ở Phòng Thông tin.

Trời khoảng 5 giờ chiều. Huế vẫn còn nắng rực rỡ. Tôi thoát những ánh mắt không mấy cảm tình, nhờ may mắn tình cờ gặp anh Cầm. Huế, nơi tôi mới từ giã cách đây chừng hai tuần, thấy lạ hẳn. Hoang vắng, buồn bã và xơ xác từ mỗi góc đường. Dân chúng chạy vô Đà Nẵng từ những ngày đầu tháng Ba chưa hồi cư.

Thành phố do Uỷ Ban Quân Quản kiểm soát và thành phần mới theo cách mạng sau tháng 3.1975, mang băng đỏ, đóng chốt các đường phố vừa làm nhiệm vụ điều khiển giao thông, vừa theo dõi thanh niên tóc dài, quần ống loa...và tất cả mọi chuyện gộp chung là “ xóa bỏ tàn dư văn hoá Mỹ Nguỵ”. Tôi chào anh Cầm về nhà, hẹn gặp sáng mai ở Ty.

Anh Cầm, Lê khắc Cầm, là một người đi dạy các trường Trung học ở Huế môn Pháp, Anh văn, quen thuộc với giới sinh viên, học sinh Huế qua dáng dấp và phong cách trí thức. Anh là dịch giả cuốn The Martyred của Richard E.Kim một nhà văn Mỹ gốc Đại Hàn. Sách xuất bản ở Mỹ năm 1967 và ở trong nước nhiều người biết đến qua nhan đề “Chúa Đã Khước Từ “, bản dịch của anh Cầm.

Tôi chưa bao giờ đọc một cách nghiêm túc cuốn sách này, vì nội dung nặng suy gẫm về sự thật, đức tin, tôn giáo, hiện sinh...còn xa lạ với tôi, mới ra trường, đang được đời đón nhận nồng nhiệt. Cũng như tôi quen anh Cầm qua chuyện trò, cà phê, ciné …mà không quan tâm anh làm gì, đời tư ra sao.

Nhóm chúng tôi còn thêm mấy anh đang dạy các trường Trung học khác ở Huế, gặp nhau đùa vui, chưa hề nói một câu chuyện nào có tính nghiêm túc, thời sự. Dồn lên một chiếc xe Jeep lính, sơn lại màu trắng, của anh một người trong nhóm, chúng tôi đi uống cà phê, ngất ngưỡng như các Caporegime của Bố Già đang đi “trãi chiếu”, ngồi trước là anh Cầm với áo mantel, mũ dạ như một Concigliori chính hiệu. Lúc đó phim, sách, nhạc Godfather, do đạo diễn Francisco Ford Coppola thực hiện từ cuốn tiểu thuyết cùng tên của Mario Puzo, đang thời thượng. Bản dịch của Ngọc Thứ Lang bán rất chạy. Chúng tôi lấy câu chuyện Bố Già làm sườn, đùa với nhau trên xe, trong cà phê… và lấy làm đắc ý, thú vị về những dí dỏm, hợp tình hợp cảnh, có duyên.

Hay những lúc cãi nhau về lối sắp bàn ghế trong cà phê Les deux magots ở Paris. Tôi vẽ trên giấy lối bày biện trong ngoài của quán cà phê, từ ký ức còn mới tinh, vì vừa xa Paris. Anh Cầm mô tả qua báo Paris Macht mà anh mới đọc. Chuyện đôi co rất vui, khó phân định đúng sai, ngay cả hứa hẹn sẽ đem tờ báo cũng như một vài tấm ảnh tôi chụp ở quán cà phê để đối chiếu, rồi cũng lãng quên qua các chuyện khác vui hơn.

Tôi về nhà sau khoảng vài tuần xa cách mà y như đã bỏ đi lâu lắm rồi. Vườn cỏ mọc um tùm, ngõ phủ đầy lá, căn nhà bốc lên mùi mốc ẩm. Tôi thắp hương bàn thờ, định bụng dọn dẹp sơ, rồi tắm rửa. Chưa kịp tìm ra cái chổi thì thấy ba thanh niên vác súng vào nhà, mời tôi qua Uỷ ban.

Ủy ban đóng trước nhà tôi. Đây là nhà bác Khả, có con học ngang lớp với tôi. Và bác hiện tại là Chủ tịch lâm thời Uỷ ban Phường, trực tiếp hỏi tôi ở đâu làm gì trong thời gian qua.

Tôi trình bày chuyện trình diện ở Xẹt và xuất trình giấy tờ chứng nhận, bố trí công tác. Bác cầm tất cả đi vô phía trong nhà. Hồi lâu bác trở ra và nói tôi về nhà nghỉ ngơi, giấy tờ Uỷ ban xem xong sẽ cho người mang đưa lại tôi. Kinh nghiệm đêm sém chết ở hang Dơi, tôi yên lặng về nhà.

Lúc này là thời buổi nguy hiểm. Tính mạng con người rất rẻ . Chỉ cần lộ vẽ bất mãn, không đồng ý với cán bộ, thành phần cách mạng địa phương là có thể mang tội chống phá cách mạng. Và tội danh này, tuỳ theo giọng lưỡi, chữ nghĩa buộc tội, có thể hoặc tập trung học tập đâu đó, hoặc biến mất dưới danh nghĩa điều động công tác. Cho nên tôi ngoan ngoãn về nhà. Tối nay phải ngủ một giấc lấy lại sức sau đêm qua sợ chết ở hang Dơi, sáng mai rồi tính.

 

Buổi sáng tôi thức dậy nghe tiếng chim hót ngoài vườn. Rồi gà ở xóm bên kia sông gáy. Không khí mát mẻ, đầu óc thoải mái. Đây chính là những điều tôi thiếu ở Đà Nẵng. Vì vậy mà nôn nao về Huế chăng khi chung quanh vừa im tiếng súng.

Tôi chế một bình trà và ngồi uống trước hàng hiên. Mới có 6 giờ sáng.

Định bụng trước khi đi vào Ty Giáo Dục, tôi sẽ lên trên Uỷ ban xin lại giấy tờ. Khi tôi dựng chiếc xe Yamaha trước sân nhà bác Khả, thì bác đã chạy vội ra trao cho tôi xấp giấy tờ đã giữ hôm qua. Bác phân bua vì tình hình mới Giải phóng, trong địa phương còn nhiều chuyện phức tạp, nên phải phân loại, đánh giá từng khóm từng nhà…dĩ nhiên khó hoàn tất nhanh, nhưng vì tôi đã có nơi công tác nên tạm ổn định. Nếu cần hỏi thêm điều gì, Uỷ ban sẽ mời sau. Tôi cám ơn bác và cũng xin báo bác biết vì nhu cầu công tác tôi sẽ ở trong Ty Giáo dục để khi cần bác liên lạc.

Việc tôi được giao đầu tiên cùng một người lái xe tên là C. nhỏ hơn tôi vài tuổi, vui vẻ. Chúng tôi có nhiệm vụ Thông báo cho Giáo chức ở Thành phố Huế và các vùng ven xung quanh, trình diện Ty Giáo Dục, nhận công tác. Chiếc xe Peugeot 404 màu xanh, nghe đâu của thầy Hoàng hữu Tiếu, Hiệu trường trường Quốc Gia Nghĩa Tử, ở góc Ngã Tư Anh Danh, Thành Nội Huế, được trưng dụng.

C. chở tôi đi quanh thành phố. Tới các ngã tư, các xóm chợ…dừng ở đó và tôi đọc các thông báo về việc Giáo chúc trình diện của Ty Giáo dục. Tôi đọc đi đọc lại khoảng ba lần và sau đó hầu như lúc nào cũng có người ghé hỏi, đại loại Ty Giáo dục đóng ở đâu, trình diện rồi có được đi dạy lại không, v.v…

Tôi không biết gì nhiều hơn họ, nhưng coi bộ chiếc xe có mang cờ, một tấm bảng để ở mặt sau trong xe, ghi Uỷ Ban Quân Quản Thành phố Huế Ty Giáo dục, có một giá trị nhất định đem lại tin tưởng, nên chỗ nào cũng đông người bao quanh, sau khi dừng xe và đọc thông báo. Mỗi chỗ dừng kéo dài khoảng tiếng đồng hồ.

Những ngày đầu tháng 4, ngày nào cũng chạy xe đi, trưa về ăn cơm tập thể, chiều làm lại một vòng. Tối đến, nếu không có họp hành, anh em thường ngồi quanh trên mấy cái bàn học trò đặt dưới cây nhãn ở góc sân, hút thuốc lào, uống trà và nói đủ thứ chuyện.

Chuyện thời sự có, chuyện đời sống ngoài Bắc trong Nam có, nhưng chỉ các anh mới vào Huế huyên thiên, còn chúng tôi nghe nhiều hơn nói. Đến chuyện táo bón thì bình đẳng. Ai cũng rên. Có người khó khăn đã mấy tuần rồi. Có người đã vài ba ngày ngồi lì rất lâu, lại không sản xuất được gì ngoài việc gắng sức đau đớn. Tôi nảy ra một ý, một công hai chuyện. Tôi tính với C. sáng mai, chúng tôi đi vùng An hoà, An Ninh Hạ, Thượng, Kim Long, nhân đó ghé ngang nhà tôi hái một ít mít non, lá sân, lá lốt… về đưa nhà bếp nấu một nồi canh, ít ra có chất tươi chống táo bón. C. biểu đồng tình sốt sắng.

Tôi cho C. biết đối xử của Uỷ ban Phường trước nhà hôm tôi mới về, và hôm nay tôi về với xe hơi có tài xế, cho họ lác mắt với ông quan cách mạng to. C. cười khoái trá và bày ra chuyện lau xe trước khi đi. Lau sơ sơ, nhưng chính là cất hai cái loa và tấm vải kẻ chữ UỶ BAN QUÂN QUẢN-TY GIÁO DỤC, cho ra vẻ xe riêng phục vụ ông lớn cách mạng.

Khi C. đậu xe trước mặt nhà tôi, người trong Uỷ ban đã kéo ra trước hàng hiên đứng đầy quan sát. Tôi mở cửa xe, nách kẹp cặp giấy đựng mấy bản thông báo. Họ thoáng thấy, rút vào nhà, nhưng vẫn đứng đầy sau hai khung cửa sổ. Chúng tôi hái 2 trái mít non, vài nắm sân, lốt và rất may mắn tìm thấy một hũ nhỏ ruốc còn trong tủ bếp. Việc chống bón và màn kịch đùa dằn mặt thành công. Tôi và C. được một trận cười thoải mái.

Bây giờ Huế đang ở những ngày đầu tháng Tư, trời ấm dần và có ngày đã nắng chói chang, ve sầu đã kêu inh ỏi. Thành phố vẫn còn thưa thớt người. Dân chúng chưa hồi cư vì còn kẹt vì phương tiện đi lại, vì giấy phép địa phương và vì sợ. Người đi lại, dù ít, nhưng các con đường đở hoang vắng. Đã có chút sinh khí dù gương mặt mỗi người đăm chiêu, lo âu, vì việc xoay xở miếng ăn hằng ngày khi chưa có chợ búa.

Tháng 4 là thời gian trước lễ Phật đản, Huế đầy âm thanh ve sầu và ngát hương bông sứ. Tôi hồn nhiên sống và mong đợi gia đình từ Đà Nẵng trở về. Hai ba hôm tôi tạt qua nhà, xem có gì lạ. Cuộc sống chính vẫn ở Ty Giáo dục, vẫn làm công việc ở Phòng Thông TIn dù biết không lâu nữa, thằng Mõ tôi cũng hết việc.

Một buổi trưa, tôi ngồi hóng mát bên gốc cây nhãn gần cổng ra vào. Cổng này đi chung Ban Quân Quản Quận 1 Thành phố Huế và Ty Giáo Dục Thừa Thiên Huế, vì cả hai cùng đóng trong khuôn viên Lục Bộ, vào cổng rẽ vào hai phía đối nhau. Tôi nhắm mắt vì chói nắng. Chợt có người lay vai, tôi nhõm đứng dậy và nhận ra trước mặt mình là bác Tr., người bạn của ba tôi. Bác Tr. hiện lãnh đạo Ban Quân Quản Quận 1. Điều này tôi đã biết từ hôm về làm Thằng Mõ cho Ty Giáo Dục. Bác chào tôi, hỏi thăm Ba Mẹ tôi và toàn gia đình. Bác trông lạ hẳn ra với áo bộ đội, mũ cối, và cây súng K54 đeo ngang hông.

Chào hỏi xong bác Tr. vỗ vai tôi và nói :

  • Cháu cố gắng công tác thật tốt để đái công chuộc tội. Bác có việc phải đi gấp. Nếu cháu cần gì, cứ lên gặp bác ở văn phòng Quận Trưởng Quận 1.

Bốn chữ “Đái công chuộc tội” làm tôi lạnh sống lưng, nhưng không ngạc nhiên, vì đã nghe ba tôi nói chuyện.

Một chiều vào tháng 3.1974, tôi cùng vài người bạn ghé ăn ở quán Monge, một quán ăn Việt Nam, và cũng là trụ sở của Tổng Hội Sinh Viên Việt Nam tại Paris, ở Quận 5. Restaurant ở tầng dưới, Trụ sở Tổng hội ở tầng trên, nằm ở rue Monge gần Đại học Paris VI và Paris VII.

Hôm đó phóng viên đài BBC đến Tổng Hội phỏng vấn về vụ Việt cộng pháo kích trường Tiểu học Cai Lậy, tỉnh Định Tường, Tiền Giang vào giờ ra chơi, khiến 32 em học sinh thiệt mạng, 55 em khác bị thương. Các anh trong Ban Chấp Hành Tổng Hội thấy chúng tôi ngồi trong quán, liền mời chúng tôi tham gia vào buổi phỏng vấn với tư cách nhà giáo, về sự việc xảy ra ở Cai Lậy.

Sau buổi phát thanh đêm đó, sáng mai bác Tr. đến nhà, nói với ba tôi :

- Thằng con anh bán nước đêm hôm qua ở Paris.

Ba tôi cũng có nghe đài BBC, đã chống lại bác, bằng cách nói lại câu nói của tôi với phóng viên :

- Bắn vào trường học, giết chết và làm bị thương gần 100 học sinh là

một tội ác chiến tranh man rợ. Chúng tôi, là Giáo chức lên án hành

động đó.

Hai ông tranh luận với nhau và sau đó không liên lạc, gặp gỡ nhau như trước. Sự việc đã một năm trôi qua, nhưng bác Tr. không quên, và tôi cảm thấy ở gần Bác, hết sức nguy hiểm, nhất là trong hùng khí chiến thắng và thi đua lập công để lấy điểm tốt với Quân Giải Phóng. Với lại tình hình chiến sự ở vòng đai Sài Gòn giữa tháng Tư vẫn còn ác liệt. Trong thời gian trước tình trạng ngã ngũ dứt khoát, chuyện phân biệt địch thù trở nên gay gắt, và việc phân loại tập trung để dễ kiểm soát, chắc chắn không tránh khỏi.

Tôi gầy rạc ra theo lo âu, và táo bón. Bao nhiêu mít non nhà tôi, không giúp gì nhiều lắm. Đêm thường mất ngủ. Thấy viễn ảnh tay bị khoá trái, bị bịt mắt dẫn đi…đến trong giấc ngủ hằng đêm. Uể oải với công việc thằng Mõ, tôi nghĩ nát nước cách thoát, ít ra là không giáp mặt với bác Tr. hằng ngày.

Bỗng anh Cầm tìm tôi, đưa giấy của Ty, phân công cùng với hai anh khác, về điều hành, ổn định trường ốc, đội ngũ thầy, cô giáo và học sinh niên khoá 1974-1975, đi đến việc khai giảng niên khoá mới 1975-1976, năm học đầu tiên của miền Nam sau Giải Phóng. Phải nói là tôi mừng quá sức. Thoát ra khỏi tầm mắt của bác Tr. trước đã, rồi tới đâu hay đó

Tôi mừng cho tôi, nhưng C. không vui. Tuy sống và làm việc cùng với C. thời gian rất ngắn, nhưng chúng tôi rất hợp nhau. C. vừa xong Tú tài năm ngoái, đang ghi học Văn Khoa thì tháng 3.1975 Bắc quân chiếm Huế. Vốn là học trò trường Hưng Đạo nên biết thầy Cầm, và khi Ty Giáo Dục được cấp chiếc xe, C. lại biết lái nên trở thành tài xế của Ty. Thời gian gần đây C. lái chở thằng Mõ tôi, kéo loa đi rao cho Giáo chức Huế về Ty trình diện.

Buổi sáng giã từ C., tôi dậy pha hai ly cà phê, rồi thức C., kéo ra ngồi nơi góc nhà vắng vẻ. C. hớp thử, và để ly xuống, đi nhanh vào nhà bếp kiếm chút đường vì cà phê pha đậm quá. C. bưng ra lưng chén, nhưng ngoài sáng mới thấy là muối. C. cười ha hả :

- Cũng hay, đủ để hai anh em mình đốt phong lông. Em xui quá phải xa

anh sau thời gian ngắn làm chung quá vui. Anh cũng xui, muốn yên

thân làm thằng Mõ Cách Mạng cũng chẳng được. Bây giờ ngửa bàn

tay ra em đổ chút muối, rồi khấn “vía lành thì giữ, vía dữ mời đi”, xong

vứt nạm muối qua vai trái. Như mẹ em hay đốt phong lông mỗi khi gặp

xui xẻo trong buôn bán.

Tôi làm theo C. cho C. không cụt hứng, dấu chuyện tôi đi, đúng như mong muốn thiệt ra là hên không xui gì cả. Nếu tôi đốt phòng lông thì nắm muối trong bàn tay ném qua vai trái thật xa, chính là bác Tr. cùng với một mớ chữ phản quốc, đái công chuộc tội…bác cột vào cho tôi, không biết vì sao ?

Từ tháng 4 trở đi, tôi ở miết dưới Truồi, hầu như dăm ba tháng mới lên Huế thăm cha mẹ và các em. Lớp cách mạng 75 lần lần được thay thế bởi cán bộ từ ngoài Bắc vào, trong mọi cơ quan. Bác Tr. không thoát khỏi vòng quay của guồng máy đó. Nghe đâu, đứa con trai đầu của Bác, đã được chọn đi học Sĩ quan tên lửa ở Liên bang Xô Viết, cũng bị trục trặc không đi được.

Tôi bám Truồi suốt 5 năm. Đến mùa Hè sau cùng, tôi phải vất một nắm muối lớn qua vai trái, đốt phong lông đuổi những vía dữ, gây ra những xui xẻo lớn, quá nguy hiểm ở Huế. Tôi vào tuốt cực Nam Việt Nam, đi ghe xuôi ngược trên sông nước từ Sài Gòn về Cà Mau, buôn bán qua ngày chờ thời.

Tháng 4 năm 1982 thời tới. Tôi xuống ghe đậu ở mé sông Cái Lớn sau quán cà phê trước trại giam Cầu Ván, Rạch Sỏi, trong một đêm mưa gió tơi bời. Khi vận may đến, toàn gặp vía lành. Ra khơi ghe tôi được tàu Đức chuyên cứu người vượt biển của tổ chức Cap Anamur vớt, và ở Đức 43 năm nay.

Lê quang Thông

Frankfurt, Germany